Hôm nay,  

Suy Trầm Sắp Tới

12/12/200700:00:00(View: 10135)

...người ta thấy ngay con thuyền Việt Nam đang đi vào bão tố và sẽ gặp gió ngược...

Sau Ngân hàng Trung ương Anh quốc, đến lượt Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ cũng hạ lãi suất và ngày càng nhiều người dự đoán là nạn suy trầm kinh tế có thể xảy ra nay mai. Diễn đàn Kinh tế đài RFA sẽ tìm hiểu về viễn ảnh đó qua cuộc trao đổi sau đây cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa do Việt Long thực hiện hầu quý thính giả.

Hỏi: Thưa ông, ngày mùng sáu vừa qua, Ngân hàng Trung ương Anh quốc đã hạ lãi suất 25 điểm cơ bản, tức là 0,25%, vì e ngại kinh tế Anh bị suy trầm. Kinh tế Anh vốn chỉ là một phần của Liên hiệp Âu châu mà nước Anh không nằm trong khối tiền tệ thống nhất Âu châu nên quyết định ấy ít được dư luận chú ý. Nhưng khi Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ lại hạ lãi suất vì cùng một mối lo kinh tế suy trầm, các thị trường bắt đầu thấy rủi ro suy trầm tại Mỹ và trên toàn thế giới có thể xảy ra.

Diễn đàn Kinh tế kỳ này đề nghị sẽ chúng ta cùng tìm hiểu về nguy cơ đó.

Vào dịp cuối năm mà mình nói về chuyện u ám của kinh tế thì quả là kém vui. Nhưng đúng là thế giới đang e ngại là suy trầm kinh tế tại Mỹ có thể xảy ra với xác suất cao hơn mọi dự đoán trước đây. Trên diễn đàn này, trong chương trình phát thanh ngày 25 tháng Chín, chúng ta đã đề cập tới rủi ro ấy và bây giờ thì tình hình quả là đáng lo hơn rất nhiều, vì không chỉ có kinh tế Hoa Kỳ sẽ bị trũng mà nhiều xứ khác cũng vậy.

Hỏi: Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về những rủi ro ấy. Trước hết là từ Hoa Kỳ, vì sao các thị trường lại dự đoán rằng kinh tế Mỹ có thể bị đình trệ"

Tôi xin nói ngay rằng kinh tế Hoa Kỳ có thể bị đình trệ, nhưng trong mức độ tương đối nhẹ và có thể là không kéo dài vì nếu so với các khối kinh tế khác trên thế giới, Hoa Kỳ còn có khả năng ứng phó. Nhưng vì nước Mỹ có ảnh hưởng tới chừng 60% vào đà tăng trưởng kinh tế của thế giới cho nên nếu kinh tế xứ này mà bị khựng thì nhiều xứ khác sẽ bị nạn suy trầm, tức là có mức tăng trưởng thấp hơn trong hai quý liền.

Về nguyên do tại Mỹ thì nạn suy sụp thị trường gia cư, vụ bể bóng tín dụng từ thị trường tài trợ gia cư loại thứ cấp đã dẫn tới hậu quả là tín dụng trở thành khan hiếm, gây ách tắc cho thị trường tài chính. Lý do thứ hai mà ở bên ngoài Hoa Kỳ người ta có thể ít chú ý là số đầu tư về tư bản có giảm vì lắm nguyên nhân phức tạp, trong đó có nạn khan hiếm tín dụng mình vừa nói. Lý do thứ ba là những giao động tại Mỹ đã lây lan qua xứ khác, kể cả hai khối kinh tế lớn là Nhật Bản và Âu châu, nên sẽ dội ngược về Mỹ. 

Hỏi: Thưa ông, người ta có thể ngạc nhiên là vì sao lại có tình trạng tín dụng khan hiếm khiến kinh tế Mỹ bị suy trầm, dù có thể là rất nhẹ như ông vừa trình bày"

Trên diễn đàn này, ta nhiều lần nói tới hiện tượng gọi là tiền rẻ, chủ yếu là từ các nước Đông Á, khiến nhiều người lạc quan hồ hởi và thổi lên bong bóng đầu tư. Hiện tượng ấy đã kết thúc như Diễn đàn Kinh tế nhắc nhở từ hai năm trước rồi. Thứ hai, trái bóng đầu tư vào gia cư địa ốc nay cũng đang xì và trái bóng tín dụng thứ cấp thực ra đã vỡ và gây hoạ cho các ngân hàng trước đây đã lỡ mua bóng đó để kiếm lời và nay bị suy sụp hàng loạt khiến họ lo sợ mà xiết chặt hầu bao cho vay để tránh rủi ro. Từ tháng Tám vừa qua, Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ thấy ra điều ấy và phải liên tục cắt lãi suất, mà coi như chưa đủ nên phải hạ thêm, và còn có thể hạ nữa, từ nay đến quý ba của năm tới.

Hỏi: Bước qua nguyên nhân thứ hai là mức giảm sút đầu tư, vì sao đầu tư tại Mỹ có thể giảm và gây ra nguy cơ suy trầm"

Thưa ông vì tín dụng đã thành khan hiếm hơn. Thứ nữa, doanh giới cũng lo rằng kinh tế có thể đình đọng nên họ tạm kìm hãm đầu tư để nghe ngóng. Thứ ba, nếu xét cho kỹ thì ta có thấy mức lợi nhuận của đầu tư thực ra không cao như đã trông đợi trước đây. Và sau cùng, công xuất của các doanh nghiệp cũng đang có dấu hiệu giảm sút. Khi đầu tư bị hềm hãm như vậy trong tâm lý bi quan phổ biến, nạn suy trầm càng dễ xảy ra.

Hỏi: Sau cùng, về loại nguyên nhân ngoại nhập như ông nói, tại sao kinh tế Mỹ có thể bị suy trầm do tình trạng suy trầm của các thị trường khác trên thế giới" Nói như vậy thì chẳng hoá ra là kinh tế Mỹ không chỉ chi phối thế giời mà cũng bị ảnh hưởng ngược"

Thưa rằng điều ấy vẫn có thể xảy ra khi hai khối kinh tế lớn nhất sau Hoa Kỳ cũng bắt đầu có dấu hiệu điêu đứng, đó là các nước Âu châu trong khối Euro và Nhật Bản. Ta không quên rằng nhiều xứ Âu châu cũng bị hiện tượng bong bóng gia cư mà có khi còn nặng hơn Hoa Kỳ, như trường hợp của Anh hay Spain mà xưa ta gọi là Tây Ban Nha. Khi các nền kinh tế đó bị đình đọng, thậm chí suy trầm, thì thị trường xuất khẩu của Mỹ cũng bị ảnh hưởng. Chung cuộc thì mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ khó đạt được 5% trong năm tới. Và thị trường thế giới có thể trải qua một giai đoạn giao động nặng.

Hỏi: Nhưng vì sao các thị trường lại dự đoán là kinh tế Mỹ sẽ chỉ bị suy trầm nhẹ và ông còn nói rằng Hoa Kỳ vẫn còn nhiều khả năng ứng phó với nguy cơ ấy"

Vì kinh tế Hoa Kỳ vẫn còn nhiều tiềm năng nên có bị suy trầm thì vẫn còn nhẹ. Thứ hai, lãi suất tại Mỹ còn cao nên còn có thể giảm để tiền sẽ thành rẻ hơn. Và bội chi ngân sách tại Hoa Kỳ cũng thấp chỉ bằng 1,2% tổng sản lượng nội địa GDP nên ngoài việc hạ lãi suất bằng biện pháp tiền tệ, Mỹ còn có khả năng tăng chi từ ngân sách để kích cầu. Cho nên dù thế giới tin là kinh tế Mỹ có thể bị suy trầm, nước Mỹ vẫn thừa tiềm lực phục hồi.

Trong khi ấy, và đây mới đáng lo, lạm phát vẫn có nguy cơ xảy ra. Trung Quốc bắt đầu điêu đứng với mức lạm phát trên hai số, y như Việt Nam, và lần đầu tiên từ rất lâu mà Nhật Bản cũng quan tâm đến vật giá vì lạm phát đã trở về sau cả chục năm giảm phát, trong khi đà tăng trưởng vẫn có thể sụt mạnh vào năm tới. Nói cho rõ hơn thì hai khối kinh tế lớn của Á châu có nguy cơ đầy nghịch lý là sản xuất giảm vì suy trầm toàn cầu mà vật giá vẫn tăng, một hiện tượng gọi là stagflation. Hậu quả là các thị trường sẽ bị biến động mạnh và có khi Mỹ kim lại hết sụt giá như người ta dự đoán.

Hỏi: Nói cách khác, thưa ông, viễn ảnh 2008 là nhiều biến động trái chiều và có nước bị suy trầm vì kinh tế Mỹ đình trệ, trong khi lại vẫn bị rủi ro lạm phát" Trong hoàn cảnh đó, xin đề nghị với ông là ta trở về hoàn cảnh của Việt Nam.

Qua năm tới, đâu là những bất trắc có thể xảy ra cho kinh tế Việt Nam"

Kinh tế Việt Nam lệ thuộc vào xuất khẩu tới 60%, cao gấp rưỡi Trung Quốc. Khi các nước, kể cả Mỹ, mà bị suy trầm thì thị trường xuất cảng của Việt Nam bị thu hẹp, đà tăng trưởng vì vậy sẽ giảm. Trong khi ấy, Việt Nam lại bị lạm phát, năm nay có thể vượt hai số, tức là cao hơn 10% và rủi ro lạm phát sẽ còn ám ảnh Việt Nam suốt năm tới. Vì vậy, năm 2008 sẽ có nhiều thách đố cho khả năng quản lý kinh tế của lãnh đạo xứ này.

Hỏi: Trong chương trình kỳ trước, ông ví von là Việt Nam đang "sống trong bong bóng" vì một phần dân chúng tự nuôi dưỡng trong ảo giác lạc quan. Nếu giả thuyết suy trầm mà xảy ra, và trái bóng đó có thể vỡ thì Việt Nam sẽ phải ứng phó ra sao"

Chúng ta cần nhìn ra chuyện gần và chuyện xa. Chuyện gần là khả năng điều tiết tiền tệ để ngăn ngừa lạm phát. Tiền tệ lưu hành tại Việt Nam quá nhiều mà hệ thống ngân hàng không thu hút được vì lãi suất quá thấp và khả năng quản lý quá tồi. Cho nên lạm phát là mối lo chính đáng, ngoài lý do vật giá gia tăng làm mình cũng nhập khẩu luôn lạm phát của thế giới.

Việt Nam cần xiết chặt hơn hoạt động của các ngân hàng, cả thương mại lẫn cổ phần, thì mới hy vọng kềm hãm đà vật giá. Đó là chuyện gần nhưng cũng đòi hỏi nỗ lực kiện toàn và cải tiến phương thức quản trị của Ngân hàng Nhà nước cho tinh vi hơn. Việc cơ chế này bơm tiền mua lại bảy tỷ Mỹ kim vào tháng Năm vừa qua là một cách chữa bệnh cho trâu, hoặc là giải phẫu bằng dao mổ bò.

Hỏi: Đó là biện pháp về tiền tệ. Ngoài ra, Việt Nam cần quan tâm đến biện pháp nào nữa"

Vì quá lệ thuộc vào xuất khẩu mà coi nhẹ thị trường nội địa, Việt Nam có chính sách ngoại hối thiếu hợp lý khi duy trì hối suất đồng bạc quá thấp và quá cứng ngắc. Tôi thiển nghĩ rằng Việt Nam cần có tỷ giá hối đoái linh động hơn, cụ thể là mở rộng hơn biên độ giao dịch và can thiệp nhặm lẹ hơn vào thị trường ngoại hối.

Một rủi ro thứ hai cho Việt Nam trong viễn ảnh kinh tế toàn cầu bị suy trầm và vật giá lại tăng ở Việt Nam là lãnh đạo kinh tế xứ này không quản lý nổi ngân sách cho chặt chẽ. Việt Nam bị bội chi ngân sách quá cao và tiêu xài công quỹ quá bừa phứa nên sẽ không thể dùng được khí cụ ngân sách hay thuế khoá để đối phó với những bất trắc. Cuối cùng thì vẫn còn bị bội chi nặng hơn.

Hỏi: Ông vừa nói đến ba loại biện pháp ứng phó là tiền tệ, ngoại hối và thuế vụ hay công chi, ngoài ra, Việt Nam còn phải cải thiện các khí cụ điều tiết nào nữa"

Nói chung thì các khí cụ điều tiết thị trường tại Việt Nam còn quá thô sơ và khả năng quản lý vĩ mô thì vẫn quá kém trong khi đã mở cửa hội nhập vào thế giới bên ngoài. Vì vậy, khi có biến động, người ta cứ nghĩ ngay đến biện pháp hành chính, như cho cán bộ đi kiểm soát giá cả, hoặc khi nhập lượng ta mua từ bên ngoài lên giá trên thế giới thì mình lại chỉ kiểm soát giá cả thành phẩm, rồi làm không nổi thì lại lấy ngân sách bù lỗ.

Nhìn chung như vậy, người ta thấy ngay con thuyền Việt Nam đang đi vào bão tố và sẽ gặp gió ngược mà thuyền trưởng không biết xử trí, tài công không điều khiển được bánh lái, và cũng chẳng biết đầu máy vận hành ra sao nữa.

Nếu xét như vậy và rút kinh nghiệm năm nay, Ngân hàng Nhà nước của Việt Nam là cơ chế ưu tiên phải được cải cách, và thật sớm, vì trực tiếp ảnh hưởng đến hai khí cụ là tiền tệ và hối đoái. Đồng thời, người ta cũng cần cải thiện khả năng thu thập thông tin và lượng định tình hình thị trường, để thấy được mối nguy trước khi xảy ra.

Hỏi: Câu hỏi cuối, thưa ông, nếu Việt Nam không cải thiện được bộ máy quản lý đó thì điều gì sẽ xảy ra"

Năm qua, Việt Nam quá lạc quan với viễn ảnh hội nhập sau khi vào Tổ chức Thương mại Thế giới và thấy đầu tư nước ngoài cứ tràn ngập như nước. Khi tốc độ tăng trưởng bị giảm sút và vật giá vẫn leo thang vùn vụt, giới đầu tư nước ngoài sẽ chột dạ về khả năng quản lý vĩ mô quá yếu của bộ máy nhà nước. Họ sẽ ngần ngại và cân nhắc rủi ro kỹ lưỡng hơn, đấy là lúc trái bóng sẽ bể trên rất nhiều thị trường, từ bất động sản đến cổ phiếu. Hoàn cảnh kinh tế toàn cầu khiến 2008 sẽ là một năm thử thách. 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.