Hôm nay,  

Ngăn Chặn Khủng Hoảng

21/08/200800:00:00(Xem: 6696)
...vài tháng sắp tới thôi, khủng hoảng ngân hàng có thể bùng nổ và lan qua nhiều ngành nghề khác....

Sau mấy tháng biến động, tình hình kinh tế Việt Nam đã có vẻ lắng đọng từ mấy tuần qua với lạm phát giảm nhẹ trong bối cảnh dầu thô sụt giá trên thế giới và khiếm hụt cán cân vãng lai cũng giảm trong tháng Bảy. Một chỉ dấu đáng chú ý là sau khi cho tăng giá xăng dầu tới hơn 30% vào ngày 21 tháng trước thì hôm 14 vừa qua, liên bộ Tài chính - Công thương đã cho lệnh giảm giá. Trong hoàn cảnh có thể nói là tranh tối sáng đó, Diễn đàn Kinh tế đài RFA có cuộc trao đổi sau đây cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về tình hình kinh tế Việt Nam vào thời gian tới.

Hỏi: Xin chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Trong chương trình hôm nay, chúng tôi đề nghị là ta sẽ cùng duyệt lại một số điều về kinh tế Việt Nam mà chưa được thấy rõ ràng, để tìm hiểu xem nguy cơ khủng hoảng kinh tế đã thuyên giảm hay chưa. Câu hỏi đầu tiên là ông nghĩ sao về quyết định mới đây là hạ giá xăng dầu. Quyết định ấy là đúng hay sai khi Việt Nam đang phải đẩy lui lạm phát" Mà vì sao lại chỉ giảm giá xăng dầu một phần của đà tăng giá tháng trước" Lý do nêu ra là để san xẻ phần nào với mức lỗ lã của các doanh nghiệp khi dầu thô lên giá trước đây, lý do ấy có đúng không"

- Đây là loại câu hỏi rất khó có giải đáp ngắn gọn vì nhiều yếu tố mình cần xét đến. Khi dầu thô lên giá trên toàn thế giới, và vì dầu thô là nguyên liệu chế cất ra xăng dầu, xăng dầu tất nhiên phải lên giá. Ngược lại, khi dầu thô xuống giá, xăng dầu bán cho giới tiêu thụ tất phải giảm. Điều ấy, ai cũng có thể hiểu được. Vấn đề là ai sẽ quyết định về mức tăng hay giảm của giá xăng dầu"

- Từ đợt tăng giá tháng Hai, khi dầu thô và xăng nhớt ở mọi nơi đều lên giá, Việt Nam lại duy ý chí cưỡng lại thị trường và dùng công quỹ bù giá để giữ nguyên giá xăng ở mức cũ. Người ta có thể hiều được quyết định ấy vì vật giá đang leo thang và xăng nhớt mà lên giá thì sinh hoạt kinh tế sẽ bị ảnh hưởng. Điều người ta không hiểu được và hết tin cậy, khi Chính quyền Việt Nam khẳng định là không tăng giá, rồi đột ngột cho tăng giá, bình quân từ 30 đến 37% cùng một lúc.

- Đấy là một chuỗi quyết định sai về cả kinh tế lẫn tâm lý và chính trị vì cho thấy Chính quyền không làm chủ được tình hình và có phản ứng lụp chụp, nhất thời. Bây giờ, chỉ hơn ba tuần sau khi tăng giá, Chính quyền lại quyết định hạ giá, mà chỉ một phần, rồi giải thích là không thể hạ thêm vì giới tiêu thụ phải san xẻ phần nào gánh nặng lỗ lã của các doanh nghiệp xăng dầu. Người dân hiểu là phải chịu một phần gánh nặng lạm phát mà vẫn thấy ấm ách không hài lòng.

Hỏi: Nếu vậy thì nhiều thính giả có thể muốn biết rằng: buộc người dân phải gánh bớt gánh nặng của lạm phát có thể là hành động đúng về kinh tế chăng"

- Câu trả lời thoả đáng nhất, theo tôi nghĩ, là Chính quyền phải có sự minh bạch trong từng quyết định kinh tế và đừng gồng mình bao biện những điều bất khả rồi giải thích quanh co khi tuột tay. Chính là cách ứng xử đó mới dễ gây ra khủng hoảng.

- Một cách cụ thể thì Chính quyền không nên và không thể kiểm soát giá cả bằng cách ấn định giá bán tối đa của các mặt hàng và bất chấp quy luật cung cầu mà mình không kiểm soát nổi. Duy trì chế độ kiểm soát ấy vẫn là biểu hiện của tinh thần bao cấp vì đẩy gánh nặng tài trợ số sai biệt giá cả cho ngân sách quốc gia hay cho doanh nghiệp và gây ra nạn tham nhũng và buôn lậu. Ngược lại, khi giá nguyên liệu giảm thì Chính quyền cũng phải hạ giá thành phầm bán cho giới tiêu thụ. Cho nên quyết định hạ giá xăng dầu là quyết định đúng - và thực sự cần thiết - về kinh tế, nhưng vẫn sai về tâm lý và chính trị trong cách giải thích.

- Về kinh tế, vật giá gia tăng trên thế giới là điều bất lợi mà cũng bất khả kháng. Nhưng, về tâm lý và chính trị, giải thích rằng dân phải chịu lỗ một phần để san xẻ gánh nặng lỗ lã của doanh nghiệp là điều sai, nhất là khi các doanh nghiệp về dầu khí thông báo rằng họ đã bắt đầu có lời! Hậu quả, người dân suy luận rằng Chính quyền không biết chủ động ứng phó, làm gì thì cũng ưu tiên bảo vệ quyền lợi của một số doanh nghiệp nhà nước, tức là tay chân của đảng. Sự suy luận ấy không sai và góp phần gây ra khủng hoảng trong niềm tin vào cơ chế kinh tế chính trị.

Hỏi: Nếu như vậy, theo ông phân tích thì trong vụ xăng dầu lên và xuống giá vừa rồi, Việt Nam nên ứng xử như thế nào thì hợp lý về kinh tế và về cả tâm lý"

- Tôi cho rằng trước tiên Việt Nam phải quan niệm lại vai trò của Chính quyền và Nhà nước trong sinh hoạt kinh tế, tức là phải đổi mới tư duy. Thứ hai, phải làm một cuộc cách mạng về thông tin - tức là đừng kiểm soát và trừng phạt báo chí như họ đang làm - để mọi người cùng biết thực tế của thị trường, như là giá có thể lên hay xuống và vì sao căn cứ trên thông tin của thị trường về tình hình xuất nhập, phí tổn và chế biến xăng dầu hầu. Thứ ba, phải chấm dứt chế độ kiểm soát giá cả vì không ngăn được lạm phát mà còn gây hệ quả phụ là khan hiếm, bội chi ngân sách, buôn lậu và tham nhũng. Thứ tư, và kết hợp hai tinh thần thông tin minh bạch với vai trò vô tư hơn của nhà nước, phải để giá cả lên xuống theo thị trường, mà thông báo rõ ràng hầu mọi người có cơ sở tính toán về chuyện kinh doanh hay sinh hoạt. Một bước cần thiết và nên làm là lập ra cơ chế công bố tình hình giá cả khách quan của thị trường với biên độ cao thấp cho việc phân phối ở từng nơi. Nơi nào bán xăng dầu một cách tự do với giá thấp nhất thì sẽ được bà con chiếu cố. Khi ấy, giá có tăng thì dân cũng biết vì sao mà liệu bề tiêu thụ và giá có giảm thì họ cũng được lợi thay vì nghĩ rằng mối lợi lại trút vào doanh nghiệp hoặc tay chân của nhà nước.

Hỏi: Chúng ta bước qua phần khác. Thưa ông, đa số chuyên gia nước ngoài khuyên Việt Nam là cần gia tăng lãi suất ngân hàng để tăng thanh khoản, khuyến cáo đó đúng hay không với tình hình kinh tế như đã thấy hồi tháng Sáu, tháng Bảy"

 - Mình không thể trách các chuyên gia ngoại quốc khi họ nói đến nhu cầu phải nâng lãi suất. Khi lãi suất gia tăng, trước tiên tiền lời ký thác phải tăng và nhờ đó nâng sức huy động tiết kiệm của ngân hàng đồng thời hút bớt lượng tiền dư dôi ngoài thị trường để đưa vào sản xuất và kiềm chế được lạm phát.

- Người ta không thể ngăn lạm phát nếu không nâng lãi suất lên khỏi số âm, tức là phải cao hơn mức lạm phát. Nhưng, doanh nghiệp nào có thể vay ngân hàng với lãi suất thực tế là quãng 25% chưa kể một hai phần trăm tiền hoa hồng như hiện nay" Vậy mà vấn đề ấy vẫn chưa là nguy kịch nhất. Nguy kịch hơn cả là người ta đi vay tiền với lãi suất rất cao mà chỉ để trả nợ chứ chưa để nâng sao sản xuất hầu có thể đẩy lui lạm phát. Chúng ta đang thực tế chứng kiến hiện tượng đổ xô để tháo chạy với hậu quả là lãi suất sẽ còn tăng trong thực tế và đó là bài toán cho Việt Nam khi muốn định mức lãi suất tối đa như thị trường đang đồn đãi từ mấy ngày nay. Doanh nghiệp nào có thể vay với lãi suất tối đa ấy" Nông dân hay ngư dân thì chắc chắn là không.

- Trong một kỳ trước, diễn đàn này có nói đến sự đào thải phũ phàng của thị trường và cảnh báo rằng nhiều ngân hàng sẽ phá sản, nhiều cơ sở bị sát nhập, may ra từ đó hệ thống tài chính ngân hàng có thể được kiện toàn. Chuyện ấy đang và sẽ xảy ra khi các ngân hàng cảm thấy như bị nghẹn vì một phần là lãi suất gia tăng, phần kia là ngân hàng thiếu thanh khoản trong khi doanh nghiệp không vay được tiền cho yêu cầu sản xuất. Tôi cho là trong vài tháng sắp tới thôi, khủng hoảng ngân hàng có thể bùng nổ và lan qua nhiều ngành nghề khác. Tình hình từ nay đến cuối năm sẽ bi đát hơn người ta tưởng.

Hỏi: Nếu vậy, vì sao lại có hiện tượng như ông nói là doanh nghiệp khó vay tiền vì lãi suất ngân hàng quá cao và điều ấy càng dễ gây ra nguy sơ suy sụp sản xuất"

- Vì nhiều bất toàn hay nhược điểm lưu cữu trong hệ thống tài chính và ngân hàng của Việt Nam và bây giờ mới là lúc gọi là "thị trường tính sổ", một cách ngặt nghèo và phũ phàng. Các ngân hàng, nhất là ngân hàng thương mại của nhà nước, không làm đúng chức năng chuyển hoá tiền tệ là huy động tiết kiệm qua thu góp ký thác và chuyển thành tín dụng có lợi cho sản xuất. Họ dùng tiền đó vào việc khác, như đầu cơ, và nay thu góp tiết kiệm để trả nợ. Nhưng, các ngân hàng quốc doanh vẫn còn tấm lưới đỡ của chính quyền nên sẽ lại thoát nạn, chứ các ngân hàng cổ phần của tư nhân mới dễ phá sản và kéo theo sự suy sụp của doanh nghiệp tư nhân.

Hỏi: Nói về sự bất công, nếu Việt Nam phải áp dụng loại biện pháp ‘thuốc đắng giã tật” thì liệu người dân có bị thiệt nhất vì lãi suất cao, sản suất sút giảm, làm nông gia hay ngư dân phá sản không"

- Vấn đề của Việt Nam nó phức tạp hơn vậy. Nông gia trồng gạo hay ngư dân nuôi cá có thể bị khốn đốn vì thiếu tín dụng và lãi suất gia tăng, điều ấy là một thực tế. Nhưng, các đại gia có tiền và có cái thế độc quyền trong thu mua và phân phối thì không bị thiệt nặng như vậy. Thay mặt nông gia, họ kêu đòi biện pháp đặc biệt, như lãi suất thấp, mà cuối cùng hưởng lợi nhất từ biện pháp đặc biệt đó và có khi còn chuyển tiền ra ngoài, chứ giới sản xuất thật ở bên dưới mới là thành phần lãnh họa.

Hỏi: Câu hỏi cuối, thưa ông, liệu lạm phát còn bùng nổ không vì dường như hệ thống ngân hàng vẫn chưa thu hút được lượng tiền dư dôi được bơm ra từ năm ngoái"Ai đang nắm nguồn tiền đó"Liệu đó có thể là những nhóm quyền lợi mà vẫn được che chở không"Và họ không bung ra có phải vì lợi ích chung của cả nền kinh tế hay không" 

- Tôi trộm nghĩ rằng lạm phát vẫn còn đó vì lượng tiền được bơm ra vẫn chưa được đông lạnh. Nó sẽ dội vào thị trường ngoại hối và đánh bung tỷ giá đồng bạc Việt Nam ra khỏi mức quá thấp hiện nay so với đồng đô la đang tăng giá. Tài sản của các đại gia được chuyển ra ngoài sẽ để lại đối giá là đồng bạc Việt Nam bị mất giá, và đấy sẽ là một yếu tố gây ra khủng hoảng nữa. Chúng ta còn phải trở lại chuyện này trong nhiều kỳ tới.

- Về phần thứ hai cùa câu hỏi, các doanh nghiệp nhà nước hay cơ sở kinh doanh có quan hệ với đảng và nhà nước thực tế giữ ưu thế trong cơ chế kinh tế và khuynh đảo chính sách kinh tế quốc dân. Họ nắm giữ nguồn tiền rất lớn và không bị thiệt hại nặng như tư doanh. Giờ đây, khi họ tháo chạy vì thấy hết lời thì việc tháo chạy ấy như ta vừa nói, lại càng là yếu tố gây nên khủng hoảng.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.