Hôm nay,  

Quan Hệ Mỹ-việt Tiến Tới Đâu?

20/06/200700:00:00(Xem: 8333)

Chuyến đi Mỹ của Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết trong tuần này là dấu chỉ cho thấy quan hệ Mỹ-Việt tiếp tục được phát triển, dù gần đây nổi lên những khác biệt trong cái nhìn về nhân quyền và đang tạo nên những cơn sóng.

Nhân quyền là một phần trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ nhưng ít được ồn ào nêu lên, trừ khi vấn đề trở nên nghiêm trọng. Dưới thời Tổng Thống Bill Clinton, Ngoại Trưởng Madeleine Albright trong một buổi thảo luận ở Hà Nội đã hỏi Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu rằng khi nào Việt Nam sẽ bắt đầu tiến trình dân chủ hoá đất nước.

Hai năm trước, khi Thủ Tướng Phan Văn Khải thăm Hoa Kỳ, Việt Nam cũng đã ký với Mỹ một thỏa thuận tôn trọng tự do tôn giáo.

Tổng Thống George W. Bush trong chuyến đi Hà Nội cuối năm 2006 đã nêu vấn đề nhân quyền với lãnh đạo Việt Nam.

Khi tiếp Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao Phạm Gia Khiêm vào tháng Ba vừa qua, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Condoleezza Rice cũng thảo luận việc Việt Nam giam giữ những người phát biểu ý kiến bất đồng với chính phủ.

Như thế, với những quan điểm khác biệt giữa hai nước về nhân quyền, quan hệ Mỹ-Việt sẽ tiến tới mức nào"

Trước hết hãy nhìn lại tiến trình bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong hơn ba thập niên qua.

Cuộc chiến ở Việt Nam với sự can dự của người Mỹ chấm dứt vào tháng 4-1975 và một năm sau hai miền Việt Nam được chính thức thống nhất dưới quốc hiệu Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tại thời điểm đó Hoa Kỳ đã áp dụng khắt khe chính sách cấm vận theo tinh thần của bộ luật cấm giao thương với những quốc gia thù nghịch được thi hành đối với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, tức miền Bắc Việt Nam, từ năm 1964. Cùng lúc, với quyền phủ quyết, Hoa Kỳ đã không chấp thuận cho Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc ngay sau chiến thắng.

Dưới thời Tổng Thống Gerald Ford, một vài cố gắng để đặt nền tảng cho quan hệ giữa hai nước đã không thành vì dựa trên điều kiện Hoa Kỳ bồi thường chiến tranh và việc tìm kiếm hơn hai nghìn binh lính Mỹ còn mất tích (POW-MIA) mà Washington và Hà Nội đã không thể đồng ý với nhau.

Sau khi Tổng Thống Jimmy Carter nhậm chức vào tháng 1-1977, vào tháng Ba ông đã cử Đặc Sứ Leonard Woodcock, lúc đó là chủ tịch Tổng Liên Đoàn Lao động Hoa Kỳ (AFL-CIO), đến Hà Nội bàn về quyền lợi song phương. Để tỏ thiện chí Hoa Kỳ không phủ nhận đơn xin gia nhập và Việt Nam chính thức trở thành hội viên Liên Hiệp Quốc vào năm 1977.

Tiếp tục những đối thoại, Thứ Trưởng Ngoại giao của hai quốc gia là Richard Holbrook và Phan Hiền đã có những thảo luận ở Paris để tìm giải pháp cho việc thiết lập quan hệ.

Nhưng cuối năm 1978 tình hình trở nên căng thẳng với xung đột Cam Bốt - Việt Nam - Trung Quốc, với việc Việt Nam ký kết hiệp ước liên minh với Liên Xô, rồi bộ đội cộng sản Việt Nam vượt biên giới qua Cam Bốt lật đổ chế độ Khờ-Me Đỏ và sự kiện ngày đầu năm 1979 chính quyền của Tổng Thống Jimmy Carter chính thức đoạn giao với Đài Loan để thiết lập quan hệ với Trung Quốc.

Trong bối cảnh một cuộc chiến tranh mới và thế chính trị điạ lí vùng châu Á nên những liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trở nên bế tắc.

Sau Đại Hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam, năm 1986 Hà Nội ban hành chính sách đổi mới, cho phép tự do kinh doanh, đón du khách và mở cửa giao thương với các nước Tây phương. Việc này tạo thuận lợi cho khối Tây Âu và các nước như Nhật, Nam Hàn, Đài Loan lập dự án kinh doanh ở Việt Nam. Nhưng luật cấm vận của Hoa Kỳ cũng còn là rào cản gây khó khăn.

Cuối nhiệm kỳ hai của Tổng Thống Ronald Reagan (1984-1988) một người nổi tiếng bảo thủ chống cộng sản, Hoa Kỳ và Việt Nam mới có những thảo luận trở lại với chuyến đi Hà Nội năm 1987 của Đặc Sứ John Vessey, nguyên Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Hoa Kỳ. Hà Nội muốn thương thảo trực tiếp với Washington về một giải pháp hoà bình cho Cam Bốt mà Hoa Kỳ không đồng ý vì chính sách của Mỹ lúc bấy giờ là ủng hộ lập trường của khối ASEAN (Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á) đòi Việt Nam rút bộ đội về nước. Hoa Kỳ cũng yêu cầu Việt Nam giải quyết vấn đề POW-MIA. Đổi lại Hoa Kỳ sẽ bỏ lệnh cấm vận và giúp Việt Nam phát triển kinh tế. Những vấn đề khác như tù cải tạo và con lai cũng được đặt ra và đã có sự hợp tác của Hà Nội.

Dưới thời Tổng Thống George Bush (Cha), 1988-1992, một số thành quả ngoại giao được thi hành nhưng vẫn chưa có bang giao giữa hai nước: con lai, cựu tù cải tạo và gia đình được định cư (1989), Washington chính thức thảo luận với Hà Nội để tìm một giải pháp hoà bình cho Cam Bốt (1990), có những tiến bộ trong việc tìm hài cốt và tin tức tù binh Mỹ. Đáp lại, Hoa Kỳ cho phép doanh gia Mỹ tổ chức du lịch Việt Nam, định mức viện trợ nhân đạo một triệu Mỹ kim một năm, các tổ chức ngoài chính phủ NGO được hoạt động tại Việt Nam, cho phép các công ty Mỹ đến Việt Nam nghiên cứu thị trường và nối lại liên lạc viễn thông giữa hai nước.

Sau khi có bầu cử tự do với sự giám sát của Liên Hiệp Quốc được tổ chức ở Cam Bốt vào năm 1993, Tổng Thống Bill Clinton bỏ cấm vận Việt Nam đầu năm 1994 và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 12-7 năm 1995, đúng hai mươi năm sau ngày Hoa Kỳ cuốn cờ rút khỏi miền Nam.

Sau mười hai năm thiết lập quan hệ ngoại giao, Việt Nam đã có quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Hoa Kỳ và mới trở thành hội viên WTO. Trao đổi thương mại giữa hai nước từ vài trăm triệu đô-la vào thập niên trước nay lên mức 10 tỉ đô-la một năm. Đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam hiện là 4 tỉ.

Về mặt chiến lược, vài năm gần đây tầu chiến Hoa Kỳ đã nhiều lần ghé cảng Sài Gòn và Đà Nẵng và bộ trưởng quốc phòng cùng giới lãnh đạo quân sự hai nước đã có nhiều chuyến thăm viếng qua lại. Hoa Kỳ trong tương lai có thể bán trang thiết bị quân sự và giúp huấn luyện lính Việt Nam. Trong khi đó Việt Nam đã có những hợp tác tích cực với Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu.

Trong tiến trình phát triển và nâng cấp quan hệ, những chuyến thăm viếng hai quốc gia của những nhà lãnh đạo cao cấp nhất đã được thực hiện.

Năm 2000, Bill Clinton là vị tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên thăm một nước Việt Nam thống nhất, hoà bình. Thủ Tướng Phan Văn Khải chính thức thăm Hoa Kỳ vào mùa hè 2005. Cuối năm 2006 Tổng Thống George W. Bush đã thăm Việt Nam nhân dự hội nghị APEC.

Chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết cho thấy quan hệ Mỹ Việt tiếp tục phát triển. Nhưng quan hệ đó sẽ tiến tới đâu" Hai nước chỉ là bạn giao thương hay sẽ thành đồng minh chiến lược"

Hà Nội thường công bố chính sách ngoại giao của Việt Nam là muốn làm bạn với các nước trong tinh thần tôn trọng chủ quyền, độc lập của nhau. Với vị trí địa lí và quá khứ lịch sử, chính sách đó có thể được hiểu là Việt Nam muốn là bạn của Trung Quốc để giữ nước, cùng lúc làm bạn với Hoa Kỳ để phát triển.

Đây là căn bản của chính sách ngoại giao đu dây đã giúp Việt Nam đạt được những thắng lợi thời chiến tranh. Nay trong thời bình và với cục diện chính trị và ý thức hệ thế giới đã thay đổi, quan hệ Mỹ-Việt hiện tại liệu có đưa hai quốc gia lên tầm đồng minh chiến lược"

Nghi thức đón tiếp Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết chỉ ở mức xã giao cho thấy quan hệ giữa Hoa Kỳ và VN còn ở mức bạn mới vì có những điều chưa hiểu nhau, chưa thân thiết như giữa Hoa Kỳ và Thái Lan, Nam Hàn, Philippines, chưa được nâng lên cấp đồng minh chiến lược, như quan hệ của Hoa Kỳ với Anh Quốc, Nhật Bản hay với Do Thái.

Chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với VN là ở thế chân vạc với 3 yếu tố: quyền lợi kinh tế, vị trí chiến lược và lý tưởng dân chủ, tự do.

Khi nào cả hai phiá đều có tầm nhìn tương đồng nhau về ba lãnh vực trên, khi đó 2 quốc gia mới thực sự có tình hữu nghị thắm thiết trước khi trở thành đồng minh chiến lược.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.