Hôm nay,  

Nhân Quyền Một Nhu Cầu Quan Trọng Trong Đời Sống Chúng Ta

12/8/201000:00:00(View: 6621)

Nhân Quyền Một Nhu Cầu Quan Trọng Trong Đời Sống Chúng Ta

Bùi Văn Đỗ
Người Việt Nam phần đông còn có một quan điểm cũ cần thay đổi như, dậy con và hướng nghiệp thì chỉ mong muốn cho con có một nghề nghiệp, dựa nhiều vào truyền thống, vào ca dao tục ngữ như: “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Nghề, đây là một nghề nghiệp như: nghề hàn, nghề tiện, nghề thầy thuốc, nghề chữa răng, nghề dược, nghề luật sư, nghề xây cất, kỹ sư. . .  Nhưng không ai quan tâm đến nghề làm chính trị. Coi như làm chính trị không phải là một nghề nghiệp, và phần đông lại còn có ác cảm với người làm chính trị. Quan niệm thông thường cho là người làm chính trị phải lươn lẹo, gian dối, gạt gẫm, lừa đảo, phải triệt hạ đối phương bằng những phương pháp hạ đẳng như thủ tiêu, giết người để đạt mục đích. Quan điểm về người làm chính trị xấu xa và tồi tệ như vậy, nên ở địa hạt này bị đại đa số công chúng Việt Nam khinh bỉ, đôi khi xa lánh. Chính vì quan điểm sai lầm trên nên ở một số quốc gia còn chậm tiến, dân trí còn thấp đã bỏ ngỏ nghề nghiệp này, đôi khi có những quốc gia chưa có trường lớp đào tạo tử tế những người sẽ ra làm nghề hoạt động chính trị. Do đó, ở những quốc gia này là mầm mống cho các chế độ độc tài, độc đảng và độc tôn.
Khi dân tình chưa có ý thức về chính trị, sợ sệt, tránh xa thì những chế độ độc tài, độc đảng, độc tôn, càng tồn tại lâu dài như Bắc Hàn, Cu Ba, Miến Điện, Trung Quốc hay Việt Nam ngày nay. Sợ sệt, xa lánh hay tẩy chay không tham gia hoạt động chính trị. Nhưng chính trị vẫn hiện hữu, phải hiện hữu và tồn tại. Vì một đơn vị nhỏ như gia đình, hội đoàn, tổ chức, còn cần thiết phải có người cầm đầu, lãnh đạo, thì hỏi ở phạm vi quốc gia, dân tộc với cộng đồng dân số hàng triệu, chục triệu, trăm triệu, hàng tỷ dân, nếu không có người lãnh đạo, không có người chọn nghề làm chính trị thì hỏi quốc gia dân tộc đó sẽ đi về đâu. Tất nhiên là mất nước ngay.
Quan niệm sai nói chung của loài người, đã có từ lâu đời cho đến nay, cần phải sửa lại. Vì như mọi người đều biết, dù trong thời gian tiền sử của con người, con người đã sống thành những tập thể như bộ tộc, bộ lạc. Đã phải có tộc trưởng để lãnh đạo bộ tộc, có người làm trọng tài xét xử những điều sai trái, oan ức ở trong các bộ tộc, Dù thủa xa xưa ấy chưa có văn hóa, chưa có văn bản, nhưng đã có những luật lệ bất thành văn, để phân xử những truyện tranh tụng giữa bộ tộc này và bộ tộc khác về đất đai, quyền lợi. . . .Rồi đi dần trên con đường tiến hóa, loài người tiến xa hơn từ bộ lạc đến quốc gia, có vua chúa, quan quyền. Trong quan niệm của con người khi còn sơ khai, coi Vua là người lãnh đạo của toàn dân, và Vua là người được Trời đặt để lên để cai trị dân, nên thủa xưa người ta coi Vua như ông trời.
Mãi cho đến những thế kỷ gần chúng ta đây, con người mới nhận ra Vua không phải là ông Trời, cũng không phải Vua là người được ông Trời sai xuống để cai trị dân, mà Vua cũng chỉ là con người như chúng ta. Trong các ngành nghề thì nghề học làm chính trị, hành nghề làm chính trị, cũng là một nghề nghiệp để cáng đáng, lãnh đạo đất nước như trăm ngàn nghề nghiệp khác.
Ngày 10-12-1948 Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền  mới được ra đời, trong Tuyên Ngôn này gồm có 30 điều, ngay từ điều 1 đã được ghi rằng:
Điều 1: Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền hạn. Loài người là sinh vật có lý trí là lương tri, do đó phải đối xử với nhau trong tình anh em.
Điều 2: Tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, văn hóa, giới tính, tôn giáo, quan điểm, lập trường chính trị, nguồn gốc dân tộc, địa vị xã hội, hay bất cứ tiêu chuẩn gì khác, đều có quyền đòi hỏi cho mình các quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này.
Điều 3: Mỗi người đều có quyền sống, quyền tự do và quyền được bảo đảm an ninh cá nhân.
Điều 4: Không một ai có thể bị bắt giữ làm nô lệ hoặc thuộc quyền sở hữu của người khác. Mọi hình thức bắt giữ và buôn bán nô lệ đều bị cấm chỉ.
Điều 5: Không một ai có thể bị tra tấn, bị đội xử hay trừng phạt một cách tàn nhẫn vô nhân đạo hay làm mất nhân phẩm.
Điều 6: Mỗi người đều có quyền đòi hỏi được công nhận tư cách pháp lý tại bất cứ nơi nào.
Điều 7: Mỗi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền đòi hỏi được pháp luật bảo vệ như những người khác. Mỗi người đều có quyền đòi hỏi được bảo vệ một cách bình đẳng trước mọi sự phân biệt đối xử trái với quy định trong Bản Tuyên Ngôn này.
Điều 8: Mỗi người đều có quyền đòi hỏi được cơ quan lập pháp sở tại bảo vệ trước mọi hành vi xâm phạm các quyền căn bản cá nhân được hiến pháp và luật pháp công nhận.
Điều 9: Không một ai có thể bị bắt bớ, giam cầm hay lưu đầy.
Điều 10: Mỗi người đều có quyền đòi hỏi một toà án độc lập, chí công vô tư,  xét xử công khai về quyền lợi và trách nhiệm của mình, hoặc về một lời cáo buộc mình.
Điều 11: Một người bị cáo buộc có hành vi phạm pháp vẫn được coi là vô tội cho đến khi tội trạng của người ấy được xắc định qua một phiên tòa công khai và vô tư mà người ấy đã được hưởng đầy đủ các biện hộ cần thiết.
Không một ai có thể bị kết án về một hành vi hoặc lỗi lầm mình đã phạm vào thời điểm mà luật quốc gia hoặc luật quốc tế lúc ấy chưa coi là phạm pháp.
Điều 12: Không một ai có thể bị xâm phạm vào đời tư, gia đình, nơi cư trú hay sự trao đổi thư tín, hoặc bị xúc phạm tới danh dự và uy tín. Mỗi người đều có quyền đòi hỏi được luật pháp bảo vệ trước những xâm phạm và xúc phạm đó.
Điều 13:  Mỗi người đều có quyền tự do di chuyển và tự do chọn lựa nơi cư trú trong lãnh thổ bất cứ một quốc gia nào. Mỗi người đều có quyền tự do ra đi hoặc trở lại bất cứ một nước nào, kể cả quê hương mình.
Điều 14: Khi bị bách hại vì lập trường hay quan điểm chính trị, mỗi người đều có quyền xin tị nạn tại một quốc gia khác. Nhưng những người bị truy nã vì tội danh không thuộc chính trị, hoặc bị truy bức vì có những hành vi trái với tôn chỉ và mục đích của Liên Hiệp Quốc thì sẽ không được hưởng quyền tị nạn chính trị này.
Điều 15: Mỗi người có quyền mang một quốc tịch. Không một ai có thể bị tước bỏ, cấm đoán hoặc cưỡng bức thay đổi quốc tịch.
Điều 16: Người nam, người nữ có khả năng kết hôn đều có quyền kết hôn và tạo lập gia đình mà không phải bị sự giới hạn nào về chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo. Cả hai được bình quyền khi kết hôn, khi sống chung và khi ly hôn.
Việc kết hôn phải dựa trên sự đồng ý và tự nguyện của các đương sự.
Gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội. Gia đình có quyền đòi hỏi được xã hội và quốc gia bảo vệ.
Điều 17: Mỗi người, một mình hay chung với người khác, đều có quyền tư hữu. Không một ai có thể tước bỏ quyền tư hữu của người khác.
Điều 18: Mỗi người đều có quyền tự do về tư tưởng, lương tri và tôn giáo. Quyền tự do này bao gồm tự do thay đổi tôn giáo hoặc tín ngưỡng, tự do hoạt động một mình hay cùng với người khác tại nơi công cộng hoặc ở tư gia để xiển dương hay rao giảng về tôn giáo hoặc tín ngưỡng của mình qua tổ chức nghi lễ thờ phượng hoặc sống theo giáo lý.
Điều 19: Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền tự do này bao gồm tự do phát biểu và bảo vệ ý kiến mà không bị ngăn trở; cũng như quyền tự do thu thập và truyền đạt tin tức và ý tưởng bằng mọi phương tiện và qua mọi biên giới.
Điều 20: Mọi người có quyền tự do lập đoàn thể và hội họp trong tinh thần ôn hòa. Không ai có thể bị cưỡng bách phải gia nhập một hội đoàn nào đó.
Điều 21: Mọi người đều có quyền trực tiếp, hoặc gián tiếp qua người đại diện, tham gia điều khiển sinh hoạt quốc gia. Mọi người đều được bình đẳng trong việc tham gia đảm nhận các trách vụ trong chính quyền của đất nước.
Ý dân là nền móng quyền lực của chính quyền. Ý dân phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ được tổ chức một cách nghiêm túc và công bằng, mọi cử tri đều có quyền bỏ phiếu và tự do hoàn toàn khi chọn bầu người đại diện.
Điều 22: Là một thành viên của xã hội, mỗi người đều có quyền  đòi hỏi được bảo đảm về an sinh xã hội.
Điều 23: Mỗi người đều có quyền lao động, quyền tự do chọn nghề, quyền được làm việc trong một môi trường xứng đáng, và quyền được bảo vệ khi thất nghiệp.
Mọi người được hưởng thù lao như nhau cho những công việc giống nhau.
Điều 24: Mỗi người có quyền được nghỉ ngơi, quyền đòi hạn chế một cách hợp lý thời gian làm việc, quyền nghỉ phép một số ngày theo quy định mà vẫn hưởng lương.
Điều 25: Mỗi người đều có quyền đòi hỏi để ít nhất cũng có một mức sống tối thiểu, bảo đảm về sức khoẻ và sự an vui cho gia đình và cho bản thân. Người mẹ và đứa trẻ có quyền đòi hỏi  những giúp đỡ và tương trợ đặc biệt.
Điều 26: Mỗi người đều có quyền được học hành. Các cấp sơ cấp và tiểu học phải được miễn phí. Giáo dục phải có mục đích mở mang kiến thức, phát triển nhân cách  và tạo ý thức tôn trọng Nhân Quyền.
Điều 27: Mỗi người đều có quyền tham gia vào sinh họat văn hóa cộng đồng, được thưởng lãm nghệ thuật và được hưởng các tiến bộ khoa học. Nếu là tác giả, mỗi người đều có quyền được bảo vệ quyền lợi vật chất và tinh thần do công trình sáng tạo hoặc tác phẩm của mình đem lại.
Điều 28: Mọi người đều có quyền đòi hỏi một môi trường quốc gia và quốc tế thuận lợi cho sự thực thi trọn vẹn các quyền hạn và quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này.
Điều 29: Mỗi người chỉ có bổn phận đối với cộng đồng nào đã giúp mình phát triển nhân phẩm một cách tự do và trọn vẹn.
Điều 30: Không một cá nhân, một tổ chức hoặc một chính quyền nào được diễn giải lệch lạc các quy định trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền này rồi tự cho mình quyền huỷ bỏ các quyền hạn và quyền tự do của một người nào đó.


Vào những thế kỷ cận đại gần chúng ta, con người mới từ từ nhận ra tầm quan trong của chính trị, của Nhân Quyền trong đời sống, nó chi phối cuộc sống con người từ A tới Z, nếu chúng ta không có quan điểm đứng đắn về vai trò này. Vì xã hội con người luôn luôn xẩy ra cảnh kẻ  mạnh hiếp đáp kẻ yếu, kẻ nắm được quyền hành ức chế kẻ cô thế. Điển hình là trong các thế kỷ 18, 19 con người còn bị mua bán, người có quyền hành, có tiền bạc còn có quyền mua bán người khác làm nô lệ, làm đứa ở, làm việc nhà, làm tôi mọi cho giới giầu có, giới chủ nhân. Người có tiền và có quyền tha hồ bóc lột người làm công, làm nô lệ cho mình. Lúc đó chưa có luật lệ nào bảo vệ quyền làm người cho người nô lộ, cho giới cùng đinh trong xã hội. Nếu có luật thì lại  là luật bảo vệ người quyền thế, kẻ có tiền, giới chủ nhân. Từ ngày có cao trào tranh đấu đòi quyền làm người của Mục Sư  Luther  King  cho người da đen ở Mỹ, lúc đó việc mua bán nô lệ trên thế giới mới từ từ được chấm dứt. Khi chưa có Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền, người yếu thế da đen ở các nước Châu Phi bị mua bán ngang hàng như thú vật.
Gandhi (1869-1948) còn có tên gọi là Mahan das Karamchand, chính trị gia và triết gia Ấn Độ, người đã đề xướng phương pháp “tránh đấu bất bạo động, bất hợp tác”, đã áp dụng phương pháp ấy để tranh đấu cho nước Ấn được độc lập khỏi sự đô hộ của người Anh. Nelson Mandela đứng dậy đòi quyền bình đảng giữa người da đen và người da trắng, đòi phân chia đất đai một cách công bằng; cuộc tranh đấu bất bạo động, nhưng lâu dài, đã đem lại quyền bình đẳng cho châu Phi. Là những tấm gương làm chính trị thật trong sáng, đem lại công lý cho người bị phân biệt đối xử, cho quyền làm người.
Những tôn giáo có ảnh hưởng lớn tới nền văn minh của nhân lọai, cũng đã nhận ra tầm quan trọng của việc tham gia vào môi trường chính trị, không những đã khích lệ người tín hữu của mình phải tham gia môi trường này, mà còn viết thành văn bản để làm tài liệu hướng dẫn như trong Hiến Chế về người Tín Hữu Giáo Dân số 42 có viết:
“ Đức ái để yêu thương và phục vụ con người không được tách rời khỏi đức công lý: cả hai theo cách riêng biệt của mình đòi buộc mọi người phải hoàn toàn công nhận thực sự các quyền lợi của con người, vì xã hội với các cơ cấu và thể chế được đặt ra vì con người. Để đem đời sống Kitô hữu vào trật tự trần thế , nghĩa là đem (đem đạo vào đời) theo ý nghĩa là phục vụ con người và xã hội, các tín hữu giáo dân tuyệt đối không thể từ chối tham gia vào “Chính trị” , nghĩa là vào các hoạt động nhiều sắc thái, kinh tế, xã hội, lập pháp, hành chánh, văn hóa, có mục đích cổ võ công ích  một cách có cơ chế. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhiều lần qủa quyết  điều này: mọi người và mỗi người  có quyền lợi  và bổn phận phải tham gia vào chính trị; việc tham gia này mang nhiều hình thức khác nhau và bổ túc cho nhau, trên nhiều mức độ  khác nhau cũng như trong các bổn phận và trách nhiệm khác nhau. Chúng ta thường nghe những nhà cầm quyền, quốc hội, giai cấp cai trị và các đảng phái chính trị  bị tố cáo là những kẻ lợi dụng thời cơ, thờ lạy quyền bính, ích kỷ tham nhũng; rồi chúng ta cũng thấy dư luận quần chúng đó đây bảo chính trị chỉ là nơi vô luân lý; tất cả lời khinh khi này không cách nào bào chữa được  cho người công giáo trốn tránh chính trị, nghi ngờ việc chung”.
Từ Hiến Chế này đã dần dần đưa đến việc thiết lập Văn Phòng Công Lý và Hòa Bình, rồi từ văn phòng này được nâng lên thành như một cấp Bộ tại Giáo Triều ở Roma, và ngày nay đã lan toả ra khắp thế giới. Tại quốc gia nào có người Công gíáo, có Hội Đồng Giám Mục là có một vị Giám Mục được chỉ định phụ trách Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình. Việt Nam là một nước Cộng Sản, trong kỳ Họp Đại Hội từ 04 đến 08/10/2010 của HĐGMVN cũng đã cử Giám Mục Nguyễn Thái Hợp, GM. Địa phận Vinh phụ trách Ủy Ban này. Dù có trễ cũng còn hơn không, vì nơi đâu chưa có Công Lý, còn bất công thì ở đó chưa có Hòa Bình. Đây là những việc làm cụ thể của các tôn giáo lớn, có ảnh hưởng đến nhân loại quan tâm đến vai trò chính trị trong cuộc sống của con người.
Chính trị là một nghề, một nghệ thuật lãnh đạo đất nước, để đưa đất nước đó đi lên tạo ra nhiều môi trường tốt hơn để phụ vụ con người. Người làm việc và hoạt động trong môi trường chính trị có trong sáng, mới quyết tâm phục vụ công ích, mới hành xử quyền công dân khi xử dụng lá phiếu một cách sáng suốt, và người đắc cử mới làm tròn trách nhiệm người đại diện do dân và vì dân, họ mới biểu quyết ra những luật lệ ích quốc lợi dân; quản lý đất nước một cách nghiêm minh trong sáng, tránh không còn tham ô hối lộ.
Người Việt Nam chúng ta đang có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là những người trẻ, nên tích cực quan tâm đến vấn đề chính trị ngay nơi các quốc gia sở tại. Tham gia bầu cử một cách tích cực, và còn ra ứng cử khi có những điều kiện thuận lợi, để có cơ hội nói lên nguyện vọng của mình, đòi lại những quyền lợi cho những người thấp cổ bé miệng ngay trong xã hội chúng ta đang sống. Đòi lại những công sản, những quyền lợi mà mỗi người khi sinh ra mặc nhiên đã được thừa hưởng như trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã ban hành ngày 10-12-1948.
Đối với người Việt Nam ở trong nước thì cho đến ngày nay, ngay ở thành phần lãnh đạo các tôn giáo, nhiều vị lãnh đạo vẫn còn quan điểm, làm chính trị là một nghề không tốt, không lương thiện; một nghề phải dùng đến những thủ đoạn, gian dối, lừa gạt và tệ hơn nữa là thanh trừng người khác. Chính vì quan điểm đó các ngài sợ sệt không dám dây dưa, lên tiếng trước những bất công oan trái mà người dân hay
chính các đồng đạo của họ phải chịu. Tệ hơn nữa còn can gián những người dấn thân vào địa hạt này. Đúng ra họ phải được các chính quyền độc tài ân thưởng vì đã tiếp tay giúp họ chấn áp, bóc lột người cô thế mạnh hơn, giúp họ độc tài và tham nhũng mạnh hơn với người dân dưới quyền
Cái hậu qủa của Việt Nam hôm nay, cũng do người Việt Nam chúng ta thờ ơ với vấn đề chính trị, cứ sợ rằng, người làm chính trị là nhúng tay vào máu như Hồ Chí Minh, nên ta tìm cách tránh xa, để HCM và đảng do ông lập ra thả dàn hủy hoại đất nước trên mọi lãnh vực. Nếu mọi người Việt Nam cùng có quan tâm đến vấn đề chính trị thì nhà cầm quyền độc tài của Việt Nam không thể nào cai trị đất nước này lâu dài từ 1954 đến nay. Không thể nào có một quốc hội bù nhìn từ ngày đó đến giờ, và đất nước bị suy đồi về luân lý, đạo đức như hôm nay.
Người Việt Nam ở trong nước, đã phải sống dưới chế độ hà khắc này, ở miền Bắc đã gần trọn thế kỷ, ở miền Nam đã 35 năm, thời gian qúa lâu cho một chế độ độc tài chuyên lừa dối, đầy mưu mô xảo trá. Thời gian qúa đủ để cộng sản thuần hóa người dân thấp cổ bé miệng, đến cả những người được mệnh danh là giới lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo, vì Cộng Sản khéo lừa đảo nên ai cũng mắc mưu, khi đã mắc mưu rồi thì không làm không yên với chúng, đến nỗi Cộng Sản sai bảo họ đến với cộng đồng hải ngoại để ngửa tay xin tiền họ cũng làm.
Nhưng những người đã chạy thóat ra được hải ngoại, được tiếp xúc với thế giới tự do, chúng ta cần phải có quan điểm rõ ràng về vấn đề chính trị. Về quyền làm người, về những quyền mỗi người khi đã được sinh ra, mặc nhiên được hưởng, chứ không phải xin người cầm quyền mới ban cho. Khi nhận ra những nhân quyền đó, chúng ta không còn sợ hãi như người ở trong nước, không còn bị ru ngủ với những lời lẽ: “Các anh làm gì cũng được, đừng đụng đến vấn đề chính trị là yên”. Xắc  định lại lập trường của mình, để không tiếp tay dưới mọi hình thức cho chế độ độc tài phi dân chủ, phi đạo đức, cứu lấy dân tộc Viện Nam của chúng ta.
Người Việt ở hải ngoại trên 54 quốc gia, với gần ba triệu người, chúng ta chỉ cần có lập trường chính trị rõ ràng, cùng chung một quan điểm, không đồng tình, không chấp nhận chế độ phi nhân Cộng Sản Việt Nam, đoàn kết với nhau thì cho có mười nghị quyến 36 của đảng Cộng sản, chúng cũng không thể lay chuyển nổi lập trường chống cộng của chúng ta. Cộng Sản có gởi ra nước ngoài hàng trăm đoàn văn công, chúng có hát múa mỏi cổ cũng mua lấy thảm bại lỗ lã khi về nước.
Người tỵ nạn luôn nhớ và tâm niệm rằng, chúng ta đã bị đảng lột sạch, lột hết chỉ còn cái quần đùi khi vượt thoát được đến vùng trời tự do. Chúng ta đừng để Cộng Sản lột thêm nữa, khi ở xứ sở này chúng ta phải phấn đấu, học tập và làm việc vất vả mới có ngày hôm nay. Chúng ta phải hy sinh, chịu khó nuôi dậy con cái nên người ở xứ sở này bằng mồ hôi và sự nhẫn nại, chứ không đi ăn cắp, đi hối lộ hay đi lượm được đô la ở ngoài đường, nên nhất định không nghe những lời ủy mị ngọt lịm tình quê hương, như cho chúng ta là “Khúc ruột ngàn dặm”, Khúc ruột ngàn dặm này trước đây 30 năm khi trốn đi vượt biên bị bắt lại, chúng ta có không bị tra khảo, đánh đập, bỏ tù và bị kết án là đồ  “phản quốc” hay không " Ngày đi vượt biên chúng ta là tội nhân, ngày nay chúng ta lại là “ khúc ruột ngàn dặm” là “ Việt Kiều yêu quái”, cũng cái mồm, cái miệng cộng sản nói ra mà sao chúng ta không tỏ rõ lập trường chính trị là dứt khoát không với Cộng Sản.
-Chuyển hướng du lịch đến các quốc gia khác để có tầm nhìn rộng hơn.
-Chỉ giúp đỡ những nhu cầu thật cần thiết với người thân.
-Tẩy chay không coi văn nghệ Việt Cộng, mà là tố giác những tên đội nốt visa du lịch đi hát chui, hát lậu.
-Có mặt ở bất cứ nơi đâu khi có phái đoàn của Cộng Sản Việt Nam vác mặt tới.
Người Việt ở hải ngoại trên toàn thế giới, có lập trường chính trị, chúng ta cùng nhau đứng lên tẩy chay chế độ độc tài thì chế độ sẽ bị cáo chung. Chỉ khi đó dân tộc Việt mới không còn nghèo đói, trẻ em mới được cắp sách đến trường học tập tử tế, bệnh nhân nghèo mới có nơi nằm trong bệnh viện và được chăm sóc, thế hệ trẻ mới khỏi bị đi làm thuê làm mướn, ở đợ, làm đĩ cho các dân tộc lân cận.
Ý thức tầm quan trọng của chính trị trong cuộc sống, dứt khoát không với chế độ độc tài cộng Sản Việt Nam, với ngần ấy người Việt ở hải ngoại đủ giật sập chế độ phi nhân bản, phi đạo đức đang bị ruỗng nát từ thượng tầng đến hạ tầng vì bất công và tham nhũng. Đòi lại những quyền căn bản đã được ghi trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, đã được ban hành và nhìn nhận từ 62 năm trước (10-12-1948).
Là người Việt Nam có mặt trên hành tinh này hôm nay, chúng ta không thể thờ ơ với vấn đề Nhân Quyền./-

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
Cuộc đua vào Tòa án Tối cao Wisconsin rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp lý và chính sách trong tiểu bang. Wisconsin là một bang chiến địa quan trọng trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tòa tối cao tiểu bang có thể đóng vai trò lớn trong các tranh chấp liên quan đến luật bầu cử, quyền tiếp cận lá phiếu và các thách thức đối với kết quả bầu cử. Cuối cùng, sự lo lắng có cơ sở của người dân cuối cùng đã được hóa giải. Số tiền “đầu tư” $20 triệu của Musk đã không thắng được sự lựa chọn của Wisconsin.
Lịch sử là sự lập lại, nhìn ngược về thời gian: Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc vào năm 211 (trước Công Nguyên) Ông đã nghe lời vị Tể Tướng Lý Tư đốt tất cả các ghi chép của Sử Gia không thuộc nước Tần, kể cả Kinh Thi. Bất cứ ai thảo luận về Kinh Thi và Kinh Thư sẽ bị xử tử. Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, vụ đốt sách chôn Nho được gọi là “Phần thư khanh nho”, bao gồm việc đốt sách và chôn sống hơn 460 học giả. (1) Năm 1958, Mao Trạch Đông đã liên hệ bản thân ông với Tần Thuỷ Hoàng. Khi ông ta chôn sống 460 học giả ông nói trong một bài phát biểu với các đồng chí của mình: “Các bạn (những nhà trí thức) căm ghét chúng tôi, coi chúng tôi là những Tần Thuỷ Hoàng. Các bạn nhầm rồi. Chúng tôi thậm chí còn vượt Tần Thuỷ Hoàng một trăm lần”.(2) Năm 1975 khi CS miền Bắc, chiếm Việt Nam Cộng Hòa, phong trào đốt sách cũng xảy ra ngay tại miền Nam, Việt Nam. Hàng trăm cuốn sách được người Cộng Hòa mang đi giấu hay mang ra nước ngoài và hàng ngàn cuốn sách bị đố
Hai tháng đã trôi qua. Trên những diễn đàn mạng xã hội và cả trong những cuộc đối thoại đời thường, rất nhiều người thổ lộ về một thói quen vừa xuất hiện: đếm xem còn bao nhiêu ngày nữa kết thúc nhiệm kỳ bốn năm của chính quyền hiện tại. “Đếm thời gian trôi” vốn không phải là một thói quen tích cực trong đời sống. Nó phản chiếu tâm trạng chán nản, buông xuôi, thậm chí là sợ hãi. Hàng loạt câu hỏi “Chúng ta phải làm gì?”; “Rồi chuyện gì nữa?”; “Chúng ta đang sống ở thời đại nào?”… Trong đó, câu hỏi lớn nhất, và biểu lộ sự phẫn nộ của người dân nhất, đó là: “Đảng Dân Chủ đang làm gì?”
Người tị nạn đã không còn được chào đón tại Hoa Kỳ kể từ ngày đầu tiên trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Donald Trump. Ngay trong ngày nhậm chức 20 tháng 1 năm 2025, ông đã ký một sắc lệnh hành pháp đình chỉ Chương trình Tiếp nhận Người tị nạn của Hoa Kỳ (U.S. Refugee Admissions Program, USRAP) trong vòng 90 ngày. Dù vào tháng 2 năm 2025, tòa án liên bang đã ra phán quyết yêu cầu khôi phục chương trình tái định cư người tị nạn, chính quyền Trump vẫn khẳng định rằng không thể thực hiện điều đó ngay lập tức, do hệ thống tiếp nhận người tị nạn đã bị giải thể gần như toàn bộ.
Trong bài diễn văn dài 90 phút trước Quốc hội Hoa Kỳ, Donald Trump nhắc lại tham vọng “giành lấy” Greenland “bằng cách này hay cách khác.” Trump tuyên bố rằng Greenland có ý nghĩa “sống còn đối với an ninh quốc gia” của Hoa Kỳ. Dù nhấn mạnh rằng chính phủ của mình “hoàn toàn ủng hộ quyền tự quyết của Greenland,” ông vẫn không quên mời gọi “nếu các bạn đổi ý, chúng tôi sẵn sàng chào đón các bạn gia nhập Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.”
Khi Ukraine từ bỏ kho vũ khí nguyên tử và tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT Nuclear Nonproliferation Treaty) với tư cách là một quốc gia phi hạt nhân vào năm 1994, họ đã thi hành một phần của Bản ghi nhớ Budapest (Budapest Memorandum), gồm một số các đảm bảo an ninh bởi Nga, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Những đảm bảo này nhằm bảo vệ chủ quyền của Kyiv, và biên giới của họ sẽ được tôn trọng. Nhưng khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014 và tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022, những cam kết đó đã chứng tỏ là vô nghĩa. Ukraine thấy mình đơn độc, sự sống còn phụ thuộc vào thiện chí của phương Tây và nằm trong tay một kẻ thù được trang bị bằng chính những vũ khí mà Kyiv đã giao nộp. Những tác động này không dừng tại Ukraine mà lan rộng. Trên toàn cầu, các chính phủ đang đánh giá lại ý nghĩa thực sự của các bảo đảm an ninh.
Trong thế giới đấu tranh sinh tồn của loài vật, chuyện cá lớn nuốt cá bé là điều không thể tránh khỏi. Nhưng trong xã hội loài người ngày nay dù đã bước vào thiên niên kỷ thứ ba hơn hai thập niên và được mệnh danh là thời đại văn minh tiến bộ vượt bực vẫn không thiếu chuyện kẻ mạnh ăn hiếp người yếu trong mối quan hệ giữa người với người. Tình trạng mạnh hiếp yếu còn diễn ra khốc liệt hơn trong mối quan hệ ở cấp quốc gia: nước lớn bắt nạt hay xâm lăng nước nhỏ. Ở đây cũng xin giải thích một chút về cách dùng chữ nhược tiểu trong tiêu đề của bài viết này. Chữ nhược tiểu dùng trong bài này hoàn toàn không có ý nghĩa đánh giá tiêu cực về quốc gia được đề cập đến. Chữ nhược tiểu dùng trong bài này là để chỉ cho sự yếu kém về quân sự và kinh tế so với những nước mạnh về quân sự và kinh tế đi xâm lược. Sự yếu kém về quân sự và kinh tế không đồng nghĩa với sự yếu kém về quyết tâm và đồng lòng bảo vệ đất nước của quốc gia bị xâm lược. Ngược lại, cuộc chiến tại Ukraine hiện nay và Việt Nam
Trong lịch sử thế giới, Việt Nam là dân tộc đã trải qua một cuộc nội chiến với kết quả là bản án tử kết thúc chế độ tự do dân chủ miền Nam ngày 30/4/1975. Hơn ai hết, những người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) năm xưa hiểu rõ cảm giác “bị lừa dối” hoặc “bị phản bội” từ bản Hiệp Định Paris do Henry Kissinger và Lê Đức Thọ thỏa thuận sau lưng chính quyền VNCH, với sự ủng hộ của Tổng Thống Richard Nixon lúc đó. Vì thế mà kể từ khi Putin phát động cuộc tấn công xâm lược Ukraine ba năm trước, người dân Việt Nam luôn tỏ rõ lập trường cùng với các lãnh đạo Châu Âu đứng về phía dân tộc và đất nước Ukraine, trừ chính quyền CSVN đã hai lần bỏ phiếu trắng nghị quyết của Liên Hiệp Quốc.
Điều gì thực sự xảy ra khi niềm tin nơi người đàn ông ở Tòa Bạch Ốc đang lung lay? Chúng ta sắp tìm ra câu trả lời rồi. “Ông ta không thể cho biết khi nào Canada sẽ tổ chức bầu cử. Chuyện gì thực sự đang diễn ra ở đó? Ông ta đang cố gắng duy trì quyền lực phải không?” Donald Trump đã viết trên mạng xã hội sau cuộc trò chuyện với Thủ tướng Justin Trudeau vào tuần trước.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.