Hôm nay,  

Ngàn Trước Tới Ngàn Sau

13/02/201000:00:00(Xem: 9757)

Ngàn Trước Tới Ngàn Sau

Nguyễn Xuân Nghĩa

Nhớ lại những gì từ ngàn năm Thăng Long"
Con người ta có trí nhớ rất kém nên thường chú ý đến biến cố lịch sử gần với thời đại cùa mình mà coi thường chuyện sinh tử của thời xa xưa.
Khi bị Thục Phán tấn công và vua Hùng vương thứ 18 phải nhảy xuống giếng tự trầm, nước ta có thể đã rơi vào vòng Bắc thuộc. Năm Thục Phán xưng Vương trên lãnh thổ Văn Lang đó là 257 trước Tây lịch. Thời Bắc thuộc khởi sự từ đó chăng" Rất đúng nhưng còn mơ hồ, vì ta biết quá ít về Thục An Dương Vương.
Thế rồi, khi viên tướng Tần là Triệu Đà nhân nước Tầu có loạn mà chiếm lấy vùng Lĩnh Nam của Trung Hoa rồi thôn tính nhà Thục, từ năm 214 trước Tây lịch, thì thời Bắc thuộc mới thực sự bắt đầu... Hợp lý hơn nhiều. Nhưng chắc chắn nhất là khi cháu chắt Triệu Đà dâng nước ta cho triều Hán thì nước Nam đã mất chủ quyền. Thời điểm ấy là năm 111 trước Tây lịch, con số dễ nhớ cho bầy hậu sinh chóng quên!
Thế thì từ năm -111 đến khi Ngô Quyền xưng Vương năm 939, dân ta đã trải 1.050 năm Bắc thuộc. Rồi lại vùng ra được. Trên thế giới, có bao nhiêu trường hợp như thế"
Ngay tại chỗ, trong 10 thế kỷ, đất Lĩnh Nam - miền Nam núi Ngũ Lĩnh - hay "Quảng Châu" và các thị tộc "Bách Việt" sống trên đó đều dần dần bị Hán hóa, bị đồng hoá. Nếu còn, thì nay là thiểu số vô cùng tuyệt đối. Đất "Giao Châu" của ta (như tên gọi sau này) lại làm ngược: Việt hoá những người Hán trôi dạt xuống miền Nam, hoặc được phái xuống cai trị dân Nam.
Xin đọc lại: Trong ngàn năm Bắc thuộc, bên dưới những nỗ lực đấu tranh để giành quyền tự chủ - của các nhân vật lịch sử Trưng, Triệu, Lý, Mai, v.v... - là sự tranh đấu âm thầm của người Việt nguyên thủy và cả những người Hán được Việt hoá (Lý Bôn là một thí dụ) để giữ bản sắc riêng và chống lại sự đồng hoá. Đấy là hiện tượng đáng chú ý mà cứ hay bị lãng quên.
Bấy giờ, kể từ năm 939, đã có quyền tự chủ rồi, dân ta mới xây dựng nền độc lập, một tiến trình cũng rất chậm rãi và đầy loạn lạc.
Chỉ vì, từ nhiều nhóm nhỏ - các thị tộc, hào trưởng hay thế lực địa phương cả Hán lẫn Việt lẫn Hán-Việt - hết bị vương triều phương Bắc chi phối nữa, "dân ta" phải kết hợp lại để xây dựng "quốc thống", một chế độ chính trị thống nhất của quốc gia. Chúng ta mất 70 năm để tiến hành việc đó, từ 939 đến 1009. Suốt giai đoạn chật vật này, không thiếu gì lãnh tụ nước Nam sẵn sàng mượn tay phương Bắc để tranh đoạt quyền bính. Con trai Ngô Vương Quyền là một thí dụ. Nhiều lãnh chúa trong thời gọi là "Thập nhị Sứ quân" cũng vậy.
Như vậy, khi lên làm Hoàng đế vào năm 1009, Lý Thái tổ phải cùng lúc giải quyết ba bài toán. Thứ nhất là dẹp nội loạn, thứ hai là xây dựng một chế độ thống nhất cho bá tánh, và thứ ba là ngăn ngừa ngoại xâm: phương Bắc đã đổi loạn thành trị. Nhà Tống đã thống nhất đất nước năm 960 và không hụt cơ hội nào để thôn tính nước Nam. Kinh nghiệm nóng hổi là khi cho tướng Hầu Nhân Bảo tấn công năm 981 - mà bị Lê Đại Hành đẩy lui...
Kể từ năm 1009, nhà Lý dần dần kiến tạo được nền móng vững hơn cho nước Đại Việt sau này. Đấy là quốc hiệu chính thức và gần như liên tục của nước ta kể từ năm 1054 cho đến năm 1804 khi Gia Long đổi tên thành Nam Việt rồi lãnh tên iệt Nam do nhà Đại Thanh đặt cho để tránh tên Nam Việt thời Triệu Đà! Năm 1820, vua Minh Mạng sáng suốt đổi quốc hiệu là Đại Nam dù nhà Thanh không chịu, và ta vẫn giữ tên ấy từ năm 1839 cho đến 1945 mới lại đổi ra Việt Nam!
Nhớ lại thì nhà Lý tồn tại liên tục từ năm 1009 đến năm 1225 - 216 năm gồm hai giai đoạn thịnh suy. Suy là từ thời Cao Tông Lý Long Trát lên ngôi năm 1175. Rồi bại là vào thời Huệ Tông Lý Long Sảm năm 1218. Sau đó, nhà Trần lên ngôi và tồn tại từ năm 1225 đến 1407, trong đó có ba lần đánh tan quân Nguyên Mông....


Nhớ đến ngàn năm Thăng Long thì trong 216 năm của nhà Lý, nước ta phải tiễu trừ nội loạn - từ các thế lực cát cứ lẫn các thị tộc thiểu số; phải ngăn ngừa ngoại xâm từ các nước Đại Lý, Chiêm Thành và một Đế quốc Chân Lạp khi ấy rất lớn và rất mạnh ở miềm Nam và Tây Nam. Đặc biệt hơn cả, nhà Lý là triều đại duy nhất của Đại Việt đã tấn công thẳng vào lãnh thổ Trung Hoa rồi thiết lập bang giao với cả nhà Tống và nhà Kim, cường quốc đã chiếm đóng phân nửa miền Bắc nước Tống!
Bên trong, nhà Lý xây dựng điển chế, phát triển giáo dục và phát huy Phật giáo, tạo dựng nền móng văn hoá riêng cho nước Nam. Nói đến nhà Lý, ta còn nhớ tới văn học, kiến trúc và tư tưởng rất độc đáo, trong đó có sự đóng góp của Phật giáo và cả văn hoá Chàm, đượm màu Ấn Độ. Ở bên dưới, sinh hoạt kinh tế cũng đã phát đạt hơn. Đại Việt khi ấy thực sự là cường quốc Đông Nam Á. Từ những mảnh vụn của chế độ Bắc thuộc mà gom lại thành một thực thể thống nhất và vững mạnh hơn, đó là công lao của nhà Lý.
Nhớ lại ngàn năm Thăng Long mà nhìn lại, chúng ta có thể học được những gì" Vận mệnh của Đại Việt được quyết định từ những nhà Ngô, Đinh, Lê, Lý rất xa xưa mà ta đã quên rồi. 
Sau khi giành lại quyền tự chủ từ hơn ngàn năm Bắc thuộc, nước ta xây dựng được nền móng vững bền hơn cho quyền độc lập là từ thời Thái tổ Lý Công Uẩn trở về sau. Đại Việt đã kịp củng cố sức mạnh sau một giai đoạn nhiễu nhương kéo dài 70 năm. Trong giai đoạn ấy, Lê Đại Hành ngăn được quân Tống năm 981 nên tạo điều kiện cho nhà Lý và danh tướng Lý Thường Kiệt có sức bật gần trăm năm sau. Cũng vậy, nước Nam dưới nhà Lý đã phát huy được cái Việt tính cần thiết cho nhà Trần để ba lần đánh bại đạo quân đã tiêu diệt cả nhà Đại Tống và nhà Cao Ly và làm chủ từ Trung Á đến phân nửa Âu Châu. Sức mạnh ấy không chỉ kết tụ trong triều đình hay tầng lớp vương công quý tộc nhà Trần. Trong khi ấy, nhà Tống lên ngôi từ năm 960 thì lại bị bại vong vì quân Mông Cổ, khi nhà Trần thay nhà Lý đã chặn đứng làn sóng Nguyên Mông.
Oán nhà Trần hoặc luyến tiếc nhà Lý là chuyện của tầng lớp ở trên. Cũng thế, chê nhà Lý tội cướp ngôi của con cháu Lê Đại Hành là chuyện vặt. Nhưng lại là chuyện lớn của những kẻ viết sử theo kiểu "ăn cây nào rào cây nấy". Trong quãng mây mù của thời gian, trải ngàn năm cho đến nay, thì quan điểm của những kẻ viết sử kiểu đó vẫn còn ảnh hưởng cho đến đời sau.
Nếu nhìn rộng ra ngoài, từ Đông qua Tây, ta mừng là Đại Việt có nhà Lý. Ngàn năm Thăng Long đánh dấu thời điểm sinh tử ấy. Sau đó, ta mới nhìn thêm là loạn thì dễ, chứ trị mới là khó. Khó nhất là khi những kẻ có quyền lại sợ loạn mà bóp nghẹt mọi khả năng suy nghĩ hoặc hành động nằm ngoài cõi chính thống. Đại Tống bại vong vì hiện tượng tư tưởng ấy. Và nếu triều đình chỉ nghĩ đến mình thì trị vẫn đổi thành loạn. Nhà Cao Ly trong cùng thời đại là trường hợp tiêu biểu.
Sau hai đời Lý và Trần, nhà Lê bắt đầu đi vào vết xe đổ tai hại này khi dựng Thánh giáo của phương Bắc thành chính giáo. Tầng lớp ưu tú nước Nam học đúng phép ổn định của phương Bắc và tưởng là tự Vương hoá mà thật ra là bị Hán hoá, với ngần ấy hậu quả bi thảm. Trong khi đó, cõi Âu Châu man rợ đã chuyển mình và sau thời Phục Hưng đã dần dần thoát xác... Khi Âu châu trưởng thành từ cuộc cách mạng văn hoá thế kỷ 16, tôn giáo vào thế kỷ 17, rồi chính trị vào thế kỷ 18, rồi khoa học kỹ thuật vào thế kỷ 19, chúng ta vẫn bơi trong dòng tư tưởng Bắc thuộc.
Leo lên đỉnh cao mà không xuống được nữa!
Sau thời Bắc thuộc bất đắc dĩ và kéo dài quá lâu, chúng ta lại có gần trăm năm Pháp thuộc. Rồi ra sức học hết tinh túy tiêu cực của cả Tầu và Tây. Là chuyện hôm nay.... khi Thăng Long và các dấu tích Lý, Trần, Lê bị chôn vùi dưới những kiến trúc xã hội chủ nghĩa dị hợm. Và sau 80 năm hiện hữu của đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước có thể trôi vào thời kỳ Bắc thuộc mới, theo "định hướng xã hội chủ nghĩa - với màu sắc Trung Hoa", khi cả thế giới đã tiến qua thế kỷ 21.
Bước vào một năm mới và nhớ đến chuyện ngàn năm, chúng ta biết nói sao" Ôi Thăng Long! Ôi Thăng Long!...

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.