Hôm nay,  

Trần-Đông-A, Ông Là Ai?

22/02/200800:00:00(Xem: 20677)

- Hồi ức của Xuân Đỗ

Tên ông mới nghe tưởng ông là thầy thuốc nam, có tiệm thuốc bắc bên cầu Sắt miệt Gia Định. Nhưng ngoài đời ông lại là một bác sĩ Tây y, khi đi lính ông là một bác sĩ Quân y, hết đi lính ông là một tù cải tạo. Hết cải tạo ông trở thành bác sĩ Giải phóng và suốt gần ba mươi năm sau ông vừa hành nghề bác sĩ vừa là Đại biểu Quốc hội CHXHCN/VN đại diện cho cử tri thành phố mang tên Bác. Có điều lạ là vào lúc cuối đời cái lý lịch trích ngang của ông lại thêm một đảng tịch: “đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam”.

Cuộc đời ông tôi nghĩ là ông nên viết hồi ký, một cuộc đời rất trôi nổi, rất sôi nổi của một con người có ý chí, nhiều tài năng, đầy tham vọng, trải qua nhiều hiểm nguy nhưng cũng gặt hái nhiều tiếng tăm. Tuy nhiên sự nghiệp cá nhân của đời ông vừa mang niềm tự hào kiêu hãnh, vừa mặc cảm ray rứt khi ông trở thành ”con quay” của một thời kỳ đất nước đầy biến động từ lúc ông sinh ra đến nay đã vào tuổi cổ lai hy.

Khi đọc bài viết này, có thể ông hỏi ngược lại, “tôi (tác giả) là ai” mà dám hỏi “ông (TDDA) là ai”. Ông thắc mắc là phải vì tôi biết ông, nhớ ông, phục ông nên mới dám viết về ông, còn cá nhân tôi chẳng có gì nổi bật, nên ông coi tôi  xa lạ  là phải.

*

Ta hãy quay ngược thời gian, trở về những năm cuối thập niên 50, đầu 60. Tôi và ông đều ở tuổi sinh viên, nhưng theo hai ngành khác nhau, ông được quân đội cho học ngành (bác sĩ) quân y, tôi học ngành (sư phạm) quân giáo. Cả ông và tôi đều mang ơn quân đội để rồi khi ra trường sẽ trở thành những người lính hiện dịch phục vụ cho lính và con cái của lính. Tình cờ họ lại xếp chúng tôi, tuy khác ngành nhưng lại ăn ở nội trú cùng doanh trại với các ông, đó cũng là cái duyên vì sao tôi quen biết nhiều thầy thuốc gốc lính.

Phải nói những năm tháng này là thời gian đẹp nhất của đời sinh viên, đất nước chưa đi vào chiến tranh, cuộc sống thanh bình, xã hội ổn định, cả tôi lẫn ông đều có niềm tư hào đã chọn con đường mang thiên chức của thầy thuốc, của nhà giáo.

Vì cùng là cánh Bắc kỳ di cư nên tôi hay để ý đến ông, một người ít giao thiệp với bạn bè, lúc nào cũng chỉ chú tâm vào việc học. Tôi biết ông quyết lấy bằng bác sĩ, coi đó là cách vượt khỏi số phận và ngoi lên với đời. Ông cũng có cái khác đời là ăn mặc rất xuyềnh xoàng, ít chải chuốt, đi cái xe kiểu Lambretta “cởi truồng”, môĩ lần đậu xe anh em biết ngay là “thằng A mới về”. Có điều lạ là ông không bồ bịch với cô nào, trong khi cuộc đời sinh viên anh nào cũng có những mối tình lẻ, nhất là cái mác y khoa của ông chỉ cần hứa chứ không cần “chi” mà vẫn có người theo.

Nói vậy chứ ông cũng có chơi bóng bàn, bóng chuyền và tham gia bích báo sinh viên. Ông có khiếu ăn nói, tranh cãi, hiếu thắng, thích làm lãnh đạo nhóm. Học hành nói chung không nổi bật (có thể vì bài vở bằng tiếng Pháp), ai có ngờ đâu khi ra trường tay nghề của ông thuộc loại bậc thầy.

Ít năm sau mỗi người một ngả. Ông ra trường đúng vào cao điểm của chiến tranh. Qua bạn bè tôi được biết ông tình nguyện về đơn vị Nhảy Dù, một binh chủng thiện chiến bậc nhất và thương vong cũng cao nhất, đặc biệt số thương binh cần tải thương. Tôi đánh giá nhầm về ông, tôi tưởng ông lạnh cẳng xin về các đơn vị hậu cứ. Lại ngạc nhiên hơn khi biết ông hay thực hiện các ca mổ ngay tại chiến trường. Phòng mổ dã chiến phải đặt các bao cát đề phòng trường hơp bị nổ do các đầu đạn còn nằm trong thân thể thương binh. Ông nổi tiếng là một người thương lính, không quản thời gian, nguy hiểm trực chờ và là y sĩ có số ca mổ dã chiến nhiều nhất trong sư đoàn Dù. Bản thân  ông không có phòng mạch riêng, không thích làm tiền, và hình như chỉ muốn hiến thân cho nghề nghiệp.

*

Sau tháng tư đen, tôi với ông lại có dịp hội ngộ tại một trại gần Suối Máu. Lúc này trong hoàn cảnh tan hàng ông có vẻ ít nói và né tránh bạn bè. Nhưng khi vào đợt học tập “chính sách mười điểm”, trong phần kiểm điểm tôi lỗi và phát biểu tại Tổ, thì ông như lấy lại  được cái sinh khí tranh luận  rất nhiệt tình của thời sinh viên, ông can đảm nhận “tội”, mà cái tội nặng nhất của ông là đi lính Dù và chữa lành cho nhiều lính “ngụy” để chúng trở lại chiến trường chống phá cách mạng.

Nếu kể về lý lịch bản thân, ông là cấp Tá, được xếp thành phần ác ôn lọai 2 (tác chiến Dù). Về lịch sử gia đình thuộc loại di cư chống Cộng. Có liên hê với Mỹ vì đi tu nghiệp phẫu thuật tại Texas. Động cơ đi lính là diện tình nguyện chứ không phải bị bắt lính. Được khen thưởng nhiều huy chương (ít nhất 5 anh dũng bội tinh) kể cả một huân chương của sư đoàn Không kỵ Mỹ. Nhìn chung ông có nhiều điểm giống tôi về mặt lý lịch, nhưng nhờ cái bằng bác sĩ của ông nên Đảng cần người, giơ cao đánh sẽ cho về sớm, không người nào quá ba năm. Trước khi ông được tha thì tôi đã ra Bắc từ năm 76.

*

Mười hai năm sau trở lại Sàigòn thì  được biết ông đã thành Giám đốc của một bệnh viện nhi khoa thành phố. Cuối thập niên 80, tiếng tăm ông lại nổi như cồn vì đã chủ trì và thành công trong ca mổ tách đôi hai em bé sanh đôi dính liền nhau có cái tên Việt &Đức. Một ca mổ tuy có sự hỗ trợ về dụng cụ, kỹ thuật từ phía Nhật, nhưng về chuyên môn thì chính ông và toán bác sĩ y tá Việt nam hoàn toàn đảm nhiệm. Ca mổ làm cho các đồng chí trong thành ủy vô cùng tự hào, vì từ nay thành phố mang tên Bác trở thành ngọn cờ đầu về lãnh vực khoa học kỹ thuật trong cả nước.

Chẳng phải các đồng chí không thôi, chính chúng tôi là những người chế độ cũ cũng hãnh diện khi người đồng đội cũ của mình chứng tỏ tài năng cho cả nước về chức năng và sở học của mình. Tôi chắc ông cũng đã đọc bài báo của nhà học giả CS Trần Bạch Đằng viết cách đây mấy năm đã cảnh giác về sự cần cải tổ hệ thống giáo dục đào tạo nhân tài, trong đó ông có viện dẫn gương của hai bác sĩ Trần Đông A và Phạm Thành Trai, “cứ nói họ được đào tạo dưới chế độ Mỹ ngụy, nhưng tài năng họ hơn ta rất nhiều”.

Sau cái vụ mổ xẻ này thì ông được tiến cử sung vào thành phần đại biểu quốc hội đại diện cho thành phố và cứ năm năm một lần được bầu lại cho đến khóa VI hiện giờ. Chuyện này thì cũng chẳng làm ai ngạc nhiên, các trí thức cũ có công với các mạng cũng đã được đề bạt vào chức danh này, cho nặng phần “mặt trận” đoàn kết đa nguyên.

Rất tiếc chuyện lại không ngừng ở đây. Tình cờ đọc phần phỏng vấn cựu thủ tướng CS Võ văn Kiệt trên V.W., chúng tôi mới được biết ông đã vào... Đảng, ai nói thì tôi không tin nhưng ông Kiệt nói tôi tin vì ông ta tự nhận là người đã giới thiệu ông để chứng tỏ với kiều bào hải ngoại là Cộng sản họ không có vụ kỳ thị và luôn có thiện chí muốn “nối vòng tay lớn”.

Tôi có phần ngạc nhiên vì lúc này nhiều nhà trí thức, tướng tá quân đội của họ đang trả lại thẻ đảng thì ông lại tìm đường vào đảng. Lại ngạc nhiên hơn với cái lý lịch và quá trình bản thân như vậy thì không thể nào trở thành người Cộng sản được. Tôi và có thể nhiều người tán đồng việc ông phục vụ -thông qua chế độ- là nhằm lợi ích cho dân, đem sở học của mình để phục vụ tha nhân như bản thân ông thường tích cực thể hiện. Nhưng rất tiếc sự mưu tìm một dấu ấn chính trị cho dài thêm lý lịch trích ngang, theo tôi, xét ra không cần thiết đối với ông, một con ngừơi đã khẳng định được vị trí của mình trong quần chúng cả nước.

Xin ông cứ tiếp tục con đường của riêng ông. Nhiều chiến sĩ Dù vẫn còn nhắc nhớ đến ông. Riêng tôi thì vẫn khâm phục ông và nhớ ông như một người đồng cảnh đã một thời nhờ quân đội miền nam cho ăn học nên người.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
- Mình lúc này không muốn theo dõi tin tức nữa. Mệt lắm. - Mình cũng vậy, không đọc báo, chỉ xem phim hoặc nghe thuyết pháp, tránh nhức đầu. - Đời người ngắn ngủi, sao phải tốn thì giờ… - Ở tuổi này, chuyện gì không vui xin miễn, tội gì phải đọc tin tức rồi tự mình làm khổ mình. Trong những năm gần đây, những phát biểu đại loại như trên từ bạn bè khiến những người trong ngành chúng tôi đôi lúc không khỏi ngán ngẫm về công việc báo chí của mình, một việc làm nếu đã không được tưởng thưởng tài chánh tương xứng, thì phần thưởng tinh thần từ ý nghĩa tự nó cũng không đủ bù đắp. Đọc báo hay không đọc báo?
Hồi đầu thế kỷ, có bữa, tôi nhận được thư của Vũ Thư Hiên. Ông hớn hở cho hay “Anh Tấn sắp sang Pháp chơi với anh vài tuần”. Thuở ấy, hai ông còn khá trẻ trung (và còn sung lắm) nên chắc chắn là đôi bạn già sẽ đi lung tung khắp Âu Châu, chứ dễ gì mà chịu quanh quẩn ở Paris. Mãi cả chục năm sau, sau khi nhà văn Bùi Ngọc Tấn lâm trọng bệnh, tôi mới nghe ông nhắc đến chuyến du hành thú vị này (với ít nhiều tiếc nuối) trong một cuộc phỏng vấn dành cho BBC – vào hôm 14 tháng 11 năm 2014: “Sang châu Âu, tôi quan sát dáng người đi, nét mặt của họ khác dân mình lắm… Đi thì mới biết mình bị mất những gì.”
Chủ tịch nước Tô Lâm được bầu làm Tổng Bí thư đảng CSVN, thay ông Nguyễn Phú Trọng từ trần ngày 19/07/2024, nhưng ông Tô Lâm chỉ dám hứa sẽ tiếp tục đi theo con đường ông Trọng đã đề ra...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.