Hôm nay,  

Trần-Đông-A, Ông Là Ai?

2/22/200800:00:00(View: 20649)

- Hồi ức của Xuân Đỗ

Tên ông mới nghe tưởng ông là thầy thuốc nam, có tiệm thuốc bắc bên cầu Sắt miệt Gia Định. Nhưng ngoài đời ông lại là một bác sĩ Tây y, khi đi lính ông là một bác sĩ Quân y, hết đi lính ông là một tù cải tạo. Hết cải tạo ông trở thành bác sĩ Giải phóng và suốt gần ba mươi năm sau ông vừa hành nghề bác sĩ vừa là Đại biểu Quốc hội CHXHCN/VN đại diện cho cử tri thành phố mang tên Bác. Có điều lạ là vào lúc cuối đời cái lý lịch trích ngang của ông lại thêm một đảng tịch: “đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam”.

Cuộc đời ông tôi nghĩ là ông nên viết hồi ký, một cuộc đời rất trôi nổi, rất sôi nổi của một con người có ý chí, nhiều tài năng, đầy tham vọng, trải qua nhiều hiểm nguy nhưng cũng gặt hái nhiều tiếng tăm. Tuy nhiên sự nghiệp cá nhân của đời ông vừa mang niềm tự hào kiêu hãnh, vừa mặc cảm ray rứt khi ông trở thành ”con quay” của một thời kỳ đất nước đầy biến động từ lúc ông sinh ra đến nay đã vào tuổi cổ lai hy.

Khi đọc bài viết này, có thể ông hỏi ngược lại, “tôi (tác giả) là ai” mà dám hỏi “ông (TDDA) là ai”. Ông thắc mắc là phải vì tôi biết ông, nhớ ông, phục ông nên mới dám viết về ông, còn cá nhân tôi chẳng có gì nổi bật, nên ông coi tôi  xa lạ  là phải.

*

Ta hãy quay ngược thời gian, trở về những năm cuối thập niên 50, đầu 60. Tôi và ông đều ở tuổi sinh viên, nhưng theo hai ngành khác nhau, ông được quân đội cho học ngành (bác sĩ) quân y, tôi học ngành (sư phạm) quân giáo. Cả ông và tôi đều mang ơn quân đội để rồi khi ra trường sẽ trở thành những người lính hiện dịch phục vụ cho lính và con cái của lính. Tình cờ họ lại xếp chúng tôi, tuy khác ngành nhưng lại ăn ở nội trú cùng doanh trại với các ông, đó cũng là cái duyên vì sao tôi quen biết nhiều thầy thuốc gốc lính.

Phải nói những năm tháng này là thời gian đẹp nhất của đời sinh viên, đất nước chưa đi vào chiến tranh, cuộc sống thanh bình, xã hội ổn định, cả tôi lẫn ông đều có niềm tư hào đã chọn con đường mang thiên chức của thầy thuốc, của nhà giáo.

Vì cùng là cánh Bắc kỳ di cư nên tôi hay để ý đến ông, một người ít giao thiệp với bạn bè, lúc nào cũng chỉ chú tâm vào việc học. Tôi biết ông quyết lấy bằng bác sĩ, coi đó là cách vượt khỏi số phận và ngoi lên với đời. Ông cũng có cái khác đời là ăn mặc rất xuyềnh xoàng, ít chải chuốt, đi cái xe kiểu Lambretta “cởi truồng”, môĩ lần đậu xe anh em biết ngay là “thằng A mới về”. Có điều lạ là ông không bồ bịch với cô nào, trong khi cuộc đời sinh viên anh nào cũng có những mối tình lẻ, nhất là cái mác y khoa của ông chỉ cần hứa chứ không cần “chi” mà vẫn có người theo.

Nói vậy chứ ông cũng có chơi bóng bàn, bóng chuyền và tham gia bích báo sinh viên. Ông có khiếu ăn nói, tranh cãi, hiếu thắng, thích làm lãnh đạo nhóm. Học hành nói chung không nổi bật (có thể vì bài vở bằng tiếng Pháp), ai có ngờ đâu khi ra trường tay nghề của ông thuộc loại bậc thầy.

Ít năm sau mỗi người một ngả. Ông ra trường đúng vào cao điểm của chiến tranh. Qua bạn bè tôi được biết ông tình nguyện về đơn vị Nhảy Dù, một binh chủng thiện chiến bậc nhất và thương vong cũng cao nhất, đặc biệt số thương binh cần tải thương. Tôi đánh giá nhầm về ông, tôi tưởng ông lạnh cẳng xin về các đơn vị hậu cứ. Lại ngạc nhiên hơn khi biết ông hay thực hiện các ca mổ ngay tại chiến trường. Phòng mổ dã chiến phải đặt các bao cát đề phòng trường hơp bị nổ do các đầu đạn còn nằm trong thân thể thương binh. Ông nổi tiếng là một người thương lính, không quản thời gian, nguy hiểm trực chờ và là y sĩ có số ca mổ dã chiến nhiều nhất trong sư đoàn Dù. Bản thân  ông không có phòng mạch riêng, không thích làm tiền, và hình như chỉ muốn hiến thân cho nghề nghiệp.

*

Sau tháng tư đen, tôi với ông lại có dịp hội ngộ tại một trại gần Suối Máu. Lúc này trong hoàn cảnh tan hàng ông có vẻ ít nói và né tránh bạn bè. Nhưng khi vào đợt học tập “chính sách mười điểm”, trong phần kiểm điểm tôi lỗi và phát biểu tại Tổ, thì ông như lấy lại  được cái sinh khí tranh luận  rất nhiệt tình của thời sinh viên, ông can đảm nhận “tội”, mà cái tội nặng nhất của ông là đi lính Dù và chữa lành cho nhiều lính “ngụy” để chúng trở lại chiến trường chống phá cách mạng.

Nếu kể về lý lịch bản thân, ông là cấp Tá, được xếp thành phần ác ôn lọai 2 (tác chiến Dù). Về lịch sử gia đình thuộc loại di cư chống Cộng. Có liên hê với Mỹ vì đi tu nghiệp phẫu thuật tại Texas. Động cơ đi lính là diện tình nguyện chứ không phải bị bắt lính. Được khen thưởng nhiều huy chương (ít nhất 5 anh dũng bội tinh) kể cả một huân chương của sư đoàn Không kỵ Mỹ. Nhìn chung ông có nhiều điểm giống tôi về mặt lý lịch, nhưng nhờ cái bằng bác sĩ của ông nên Đảng cần người, giơ cao đánh sẽ cho về sớm, không người nào quá ba năm. Trước khi ông được tha thì tôi đã ra Bắc từ năm 76.

*

Mười hai năm sau trở lại Sàigòn thì  được biết ông đã thành Giám đốc của một bệnh viện nhi khoa thành phố. Cuối thập niên 80, tiếng tăm ông lại nổi như cồn vì đã chủ trì và thành công trong ca mổ tách đôi hai em bé sanh đôi dính liền nhau có cái tên Việt &Đức. Một ca mổ tuy có sự hỗ trợ về dụng cụ, kỹ thuật từ phía Nhật, nhưng về chuyên môn thì chính ông và toán bác sĩ y tá Việt nam hoàn toàn đảm nhiệm. Ca mổ làm cho các đồng chí trong thành ủy vô cùng tự hào, vì từ nay thành phố mang tên Bác trở thành ngọn cờ đầu về lãnh vực khoa học kỹ thuật trong cả nước.

Chẳng phải các đồng chí không thôi, chính chúng tôi là những người chế độ cũ cũng hãnh diện khi người đồng đội cũ của mình chứng tỏ tài năng cho cả nước về chức năng và sở học của mình. Tôi chắc ông cũng đã đọc bài báo của nhà học giả CS Trần Bạch Đằng viết cách đây mấy năm đã cảnh giác về sự cần cải tổ hệ thống giáo dục đào tạo nhân tài, trong đó ông có viện dẫn gương của hai bác sĩ Trần Đông A và Phạm Thành Trai, “cứ nói họ được đào tạo dưới chế độ Mỹ ngụy, nhưng tài năng họ hơn ta rất nhiều”.

Sau cái vụ mổ xẻ này thì ông được tiến cử sung vào thành phần đại biểu quốc hội đại diện cho thành phố và cứ năm năm một lần được bầu lại cho đến khóa VI hiện giờ. Chuyện này thì cũng chẳng làm ai ngạc nhiên, các trí thức cũ có công với các mạng cũng đã được đề bạt vào chức danh này, cho nặng phần “mặt trận” đoàn kết đa nguyên.

Rất tiếc chuyện lại không ngừng ở đây. Tình cờ đọc phần phỏng vấn cựu thủ tướng CS Võ văn Kiệt trên V.W., chúng tôi mới được biết ông đã vào... Đảng, ai nói thì tôi không tin nhưng ông Kiệt nói tôi tin vì ông ta tự nhận là người đã giới thiệu ông để chứng tỏ với kiều bào hải ngoại là Cộng sản họ không có vụ kỳ thị và luôn có thiện chí muốn “nối vòng tay lớn”.

Tôi có phần ngạc nhiên vì lúc này nhiều nhà trí thức, tướng tá quân đội của họ đang trả lại thẻ đảng thì ông lại tìm đường vào đảng. Lại ngạc nhiên hơn với cái lý lịch và quá trình bản thân như vậy thì không thể nào trở thành người Cộng sản được. Tôi và có thể nhiều người tán đồng việc ông phục vụ -thông qua chế độ- là nhằm lợi ích cho dân, đem sở học của mình để phục vụ tha nhân như bản thân ông thường tích cực thể hiện. Nhưng rất tiếc sự mưu tìm một dấu ấn chính trị cho dài thêm lý lịch trích ngang, theo tôi, xét ra không cần thiết đối với ông, một con ngừơi đã khẳng định được vị trí của mình trong quần chúng cả nước.

Xin ông cứ tiếp tục con đường của riêng ông. Nhiều chiến sĩ Dù vẫn còn nhắc nhớ đến ông. Riêng tôi thì vẫn khâm phục ông và nhớ ông như một người đồng cảnh đã một thời nhờ quân đội miền nam cho ăn học nên người.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Cuối năm là lúc con người nhìn lại về giá trị cuộc sống. Một bài viết trên trang mạng The Conversation nêu vấn đề về những vực thẳm chính trị, các cuộc chiến tranh, áp bức… và con người vì thế cảm thấy vô vọng và bất lực khi chứng kiến những thế lực đen tối diễn ra khắp nơi trên thế giới. Liệu chúng ta có thể làm được điều gì đem lại thay đổi trước những bi hoại này hay không?
Danh hiệu “Nhân Vật Của Năm” do TIME bắt đầu từ năm 1927 – theo truyền thống được trao cho những người có ảnh hưởng đáng kể trong các sự kiện toàn cầu, từ chính trị đến văn hóa, môi trường, nghệ thuật. Những người được chọn đóng vai trò như một “thước đo phong vũ” về sức lan tỏa trong xã hội đương đại. Ảnh hưởng đó, theo tiêu chuẩn do chính TIME đề ra, có thể là “for better or for worse – làm cho thế giới tốt đẹp hơn hoặc tệ hại hơn.”
Tiễn 2024, thế giới sẽ chào đón một năm mới 2025 mang theo cả bóng tối lẫn ánh sáng. Các cuộc xung đột, sự phân cực chính trị và những rủi ro khôn lường là lời nhắc nhở về sự bất ổn của thời đại. Nhưng đồng thời, khả năng phục hồi kinh tế, sự phát triển công nghệ, tinh thần hợp tác quốc tế, hơi thở và sự sống còn bất khuất của từng người mẹ, từng đứa trẻ vực dậy và vươn lên từ những đống gạch vụn đổ nát ở Ukraine, ở Gaza, ở Syria… cũng là cảm hứng và hy vọng cho tương lai nhân loại. Nhà văn Albert Camus đã viết: “Giữa mùa đông lạnh giá nhất, tôi tìm thấy, trong mình, một mùa hè bất khả chiến bại.”* Thế giới năm 2025, với tất cả những hỗn loạn, vẫn mang đến cơ hội để con người vượt qua và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, tử tế hơn. Đó cũng là lời chúc chân thành cuối năm của toàn ban biên tập Việt Báo gửi đến quý độc giả: một năm 2025 tràn trề cơ hội và hy vọng.
Trong ba năm học gần đây, PEN America đã ghi nhận hàng loạt trường hợp cấm sách xảy ra trên toàn nước Mỹ, đặc biệt trong các trường công lập. Những nỗ lực xóa bỏ một số câu chuyện và bản sắc khỏi thư viện trường học không chỉ gia tăng mà còn trở thành dấu hiệu của một sự chuyển đổi lớn hơn, đặt ra câu hỏi nghiêm trọng về tương lai của giáo dục công lập. Việc kiểm duyệt này phản ánh một xu hướng đáng lo ngại: sự tập trung vào việc kiểm soát nội dung văn hóa và giáo dục, thay vì khuyến khích học sinh tiếp cận kiến thức đa chiều.
Syria đang sống trong một bước ngoặt lịch sử sau khi chế độ độc tài sụp đổ nhanh chóng và Bashar al-Assad trốn sang Nga để tị nạn. Các nhóm nổi dậy chiến thắng đang cố gắng duy trì trật tự công cộng và thảo luận về các kịch bản cho tương lai. Lòng dân hân hoan về một khởi đầu mới đầy hứa hẹn pha trộn với những lo âu vì tương lai đất nước còn đầy bất trắc. Trong 54 năm qua, chế độ Assad đã cai trị đất nước như một tài sản riêng của gia đình và bảo vệ cho chế độ trường tồn là khẩu hiệu chung của giới thân cận.
Các số liệu gần đây cho thấy những thách thức mà nhà lãnh đạo Trung Quốc phải đối mặt để phục hồi kinh tế cho năm 2025, khi quan hệ thương mại với thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc có thể xấu đi cùng lúc mức tiêu thụ trong nước vẫn sụt giảm. Và thật sự thì nền kinh tế Trung Quốc tệ đến mức nào? Việc đặt câu hỏi này ngày càng trở nên hợp lý khi Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng sản xuất trì trễ và tiền tệ mất giá kéo dài trong những năm gần đây. Đặc biệt, chính quyền Bắc Kinh dường như không muốn công khai toàn bộ thực trạng.
Chiều ngày Thứ Ba 17/12, tòa án New York kết án Luigi Mangione 11 tội danh, bao gồm tội giết người cấp độ 1, hai tội giết người cấp độ 2 cùng các tội danh khác về vũ khí và làm giả danh tính. Theo bản cáo trạng, một bồi thẩm đoàn ở Manhattan đã truy tố Mangione về tội giết người cấp độ hai là tội khủng bố. Tòa đã kết tội hành động của Luigi Mangione – một hành động nổi loạn khó có thể bào chữa dù đó là tiếng kêu cuối cùng của tuyệt vọng.
Ngay từ thời điểm này, cho dù chưa chính thức bước vào Tòa Bạch Ốc, tổng thống đắc cử Donald Trump đã hứa hẹn một chiến dịch bài trừ di dân lớn nhất lịch sử Mỹ. Những cuộc kiểm soát, bắt bớ, trục xuất di dân dự kiến sẽ diễn ra với qui mô lớn trong vài năm tới. Nhiều sắc dân nhập cư ở Mỹ sẽ phải lo lắng, nhưng cộng đồng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất sẽ là cộng đồng di dân gốc Mỹ Latin. Lời hứa này đang làm hài lòng những người Mỹ xem dân nhập cư là kẻ cướp đi việc làm và quyền lợi của mình. Rất đông trong số này thuộc các cộng đồng di dân, trong đó có cộng đồng gốc Việt. Tuy nhiên, có bao nhiêu người thấy được toàn cảnh ảnh hưởng của những chính sách bài trừ di dân đến nền kinh tế và xã hội Hoa Kỳ?
Trong tài liệu của Thư Viện Quốc Hội ghi rằng, nguồn gốc của quyền ân xá trong Hiến Pháp Hoa Kỳ đến từ lịch sử Anh quốc. Quyền ân xá xuất hiện lần đầu tiên dưới thời trị vì của Vua Ine xứ Wessex vào thế kỷ thứ bảy. Mặc dù tình trạng lạm dụng quyền ân xá ngày càng tăng theo thời gian, dẫn đến những hạn chế sau đó, nhưng quyền ân xá vẫn tồn tại trong suốt thời kỳ thuộc địa của Mỹ.
Tôi cộng tác với tuần báo Trẻ (tờ báo có nhiều ấn bản nhất tại Hoa Kỳ) gần hai chục năm qua. Sự gắn bó lâu dài này không chỉ vì tấm lòng yêu nghề (và thái độ thân thiện cởi mở) của ban biên tập mà còn vì chút tình riêng. Mỗi tuần Trẻ đều dành hẳn một trang báo, để trân trọng giới thiệu đến độc giả hai ba vị thương phế binh (Việt Nam Cộng Hòa) đang sống trong cảnh rất ngặt nghèo ở quê nhà. Nhìn hình ảnh đồng đội của mình đang ngồi trên xe lăn, hay nằm thoi thóp trong một gian nhà tồi tàn nào đó – lắm lúc – tôi không khỏi băn khoăn tự hỏi: “Liệu có còn ai nhớ đến những kẻ đã từng vì đời mà đi không vậy?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.