Hôm nay,  

Nắng Chiều Và Nhạc Sĩ Lê Trọng Nguyễn

11/01/200800:00:00(Xem: 10725)

Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn.

Vào ngày này cách đây bốn năm, Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn đã lặng lẽ ra đi về cõi vĩnh hằng, để lại cho nền âm nhạc Việt Nam nhạc phẩm bất hủ “Nắng Chiều” và ba bốn mươi  nhạc phẩm nổi tiếng khác.

Bà Nguyễn thị Nga, hiền thê của Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn đã thực hiện hai CD “Lá Rơi BênThềm” và “Lê Trọng Nguyễn Collection” để lưu lại dòng nhạc trữ tình của Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn. Nhiều buổi ra mắt hai CD này đã được tổ chức ở Cali và Paris, Pháp.

Được biết Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn sinh năm 1926 tại Điện Bàn tỉnh Quảng Nam. Ông rất hiếu học về văn hóa và rất yêu thích âm nhạc. Đa số các nhạc sĩ thời trước thường tự học nhạc hay qua những người thân quen. Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn học nhạc  qua sách vỡ của Pháp, và ông học hàm thụ ở  trường âm nhạc Pháp Ecole Universelle. Ông thường gởi tác phẩm sang Pháp để trao đổi về kỹ thuật viềt nhạc. Đến  năm 1952 thì Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn  sáng tác  nhạc phẩm “Sóng Đà Giang”. Qua nhạc phẩm đó  ông được nhận vào Hội Nhạc sĩ Pháp S.A.C.E.M. Đây là bước đầu tiên và mở rộng cuộc đời sáng tác âm nhạc của ông.

Tác phẩm kế tiếp là bản  “Ngày Mai  Trời Lại Sáng” sáng tác năm 1946, bản này là kỷ niệm thời thanh niên yêu nước. Từ 1953 đến 1959 ông có nhiều tác phẩm ra đời trong đó có nhạc phẩm  “Nắng Chiều”, “Bến Giang Đầu”…

Tác giả đã nói nhiều với những người bạn thân về bản “Nắng Chiều”. Nhiều người tưởng  ông viết bài này ở Hội An vì Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn đã ghi lại trong âm  nhạc nhiều cảnh đẹp cũng như những cảm  xúc, mơ ước, tình yêu tuổi trẻ của ông ở Hội An, nhưng bản “Nắng Chiều” được sáng tác ở Cung Nội Huế. Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn có lần đến Cung Nội Huế với Nhạc sĩ Vũ Đức Duy, ở đây Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn gặp lại một người bạn thân quen từ trước,  trong  giây phút đầy xúc cảm đó, trong nắng của Cung Nội Huế, nhạc phẩm Nắng Chiều được sáng tác. 

Trong dòng nhạc của Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn trước năm 1975, tác phẩm nổi tiếng nhất là bản  “Nắng Chiều”, nhưng tác giả yêu thích nhất là bản "Sao Đêm” và “Lá Rơi Bên Thềm”. Bản “Sao Đêm “có nét nhạc cổ điển Tây Phương, nội dung bản này cho thấy có một sự  đam mê lãng mạn. Nguồn cảm hứng để viết bản “Lá Rơi Bên Thềm” là cuộc sống đầu đời của ông trong đó có Ca sĩ Minh Trang, Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Theo Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, Nhà Thờ Huyện Sĩ rất nhỏ nhưng là nơi đẹp nhất, vì ông có một kỷ niệm đẹp ở đây. Khi qua đây ông đã sáng tác bài “Chiều Bên Giáo Đường”.

Sau năm 1975, tình cảm giữa những người  nghệ sĩ còn ở lại như Mai Thảo, Phạm Đình Chương và Lê Trọng Nguyễn đã thương nhau như anh  em. Sau khi Mai Thảo và Phạm Đình Chương  đi hải ngoại, Lê Trọng Nguyễn rất  nhớ bạn, từ nguồn cảm hứng đó Ông đã sáng tác nhạc phẩm “Sóng Nước Viễn Phương”. Bản này phổ nhạc từ một bài thơ của Thẩm Oánh viết cho các bạn đã ra đi.

Về bản nhạc “Bến Giang Đầu “thì một nhà xuất bản đề nghị đặt tên “Nắng Chiều 2” nhưng Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn không muốn đổi tên bản nhạc vì đó là một kỷ niệm dễ thương khác của ông ở một thôn xóm đẹp, nên thơ, trên dòng sông êm đềm, bên giàn hoa tím và một người bạn gái đã lên xe hoa.

Khoảng năm 1958 có một đoàn nhạc Nhật Bản Toho Geino sang Việt Nam. Trưởng đoàn muốn một ca sĩ của đoàn hát nhạc Việt Nam. Nhạc sĩ Nguyễn Hiền đưa ra 12 bản nhạc, và bản “Nắng Chiều” được đoàn nhạc Nhật Bản chọn. Ca sĩ Midori Satuki  rất nổi  tiếng đã trình bày nhạc phẩm  “Nắng Chiều” lần đầu tiên ở  Hội Chợ Thị Nghè và sau đó bản nhạc được phát thanh trên các Đài Việt Nam và Đông Kinh.

Đến năm 1960 thì đoàn nhạc Trung Hoa Dân Quồc đến Việt Nam với mục đích  trao đổi văn hóa Á Châu. Trong đoàn nhạc đó Nữ Ca sĩ  Ki Lo Ha   không hề quen biết nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn nhưng đã biết  nhạc phẩm “Nắng Chiều”. Cô muốn gặp Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, và trên đường trở về Đài Loan, cô đã viết bài này lại bằng lời Hoa . Cô đã trình bày bản này ở Đài Loan và sau đó bản nhạc được mệnh danh là “Bản tình ca đẹp nhất” ở Đài Loan trong thập niên 1970.

Nhà Thơ Du Tử Lê,  Nhạc sĩ Nguyễn Hiền cùng với sự khuyến khích của nhiều anh em, tuyển tập nhạc  Lê Trọng Nguyễn cùng với hai CD "Lá Rơi Bên Thềm”, “Lê Trọng Nguyễn Collection” được thực  hiện và ra mắt vào dịp giỗ đầu của Lê Trọng Nguyễn năm 2005.

Sau đó một buổi ra mắt CD “Lá Rơi Bên Thềm” được ra mắt ở Paris ngày 11 Tháng 11, 2006 và năm 2007.

Về hoài bảo thì Nhạc sĩ Lê trọng Nguyễn  muốn để lại cho đời những gì ông hiểu biết, những gì ông cảm nghĩ và ghi lại trong ba bốn chục tác phẩm, rõ ràng nhất là ông muốn để lại thế hệ sau kỹ thuật  sáng tác nhạc. Ước muốn này thể hiện rất kiên nhẫn từ năm 2000-2003, ông đã ghi lại những hiểu biết về kỹ thuật viết nhạc qua một quyển sách là “Nghệ Thuật Viết Nhạc”. Quyẻn sách được chuẩn bị xong, ông đưa cho cô con gái đánh máy, có nhiều chỗ cần sửa lại thì ông bị trở bệnh nặng và ra đi. Có thể quyển sách sẽ được xuất bản trong một thời gian gần đây.

Qua những bản nhạc “Nắng Chiều”, “Bến Giang Đầu” chúng ta cảm thấy ở Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn một tình yêu thật nhẹ nhàng, trên quê hương xinh đẹp. Qua ca khúc “Lá Rơi Bên Thềm” và “Chiều Bên Giáo Đường” chúng ta cảm thông được những thao thức của tuổi trẻ và qua bản “Sao Đêm, “Cung Điệu Buồn” tác giả đã  trình bày những u hoài, nhớ nhung, những hoài niệm không nguôi.

Cố Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn đã ra đi, để lại cho vườn hoa âm nhạc Việt Nam nhiều bông hoa hương sắc thăm tươi, đóng góp một phần không nhỏ cho nền văn học nghệ thuật dân tộc.

VIDEO CÁC CA SĨ TRÌNH BÀY NHẠC LÊ TRỌNG NGUYỄN: http://www.youtube.com/watch"v=IA5nAQ7b27k

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.