Hôm nay,  

Tết Nguyên Đán

1/14/200900:00:00(View: 9800)
TẾT NGUYÊN ĐÁN
Chân Quê
"Nguyên-Đán" là chữ Nho; diễn nghĩa theo chữ nôm ý chỉ: "Những buổi rạng đông của sự khởi đầu"; khởi đầu cho Năm, Tháng và Mùa.  Người Việt-Nam chúng ta phân chia thời-gian dựa theo sự vận hành của mặt trăng, mỗi Tháng được bắt đầu vào ngày của tuần trăng mới và Năm cũng khởi đầu vào tuần trăng mới đầu tiên tiếp theo lúc mặt trời ra khỏi Chí-Tuyến-Nam.  Như vậy, Tết dựa theo sự vận hành của mặt trời lẫn mặt trăng.  Nó mở đầu Mùa Xuân, vì thế Tết bao giờ cũng rơi vào thời-gian của hạ tuần tháng Giêng hoặc trung-tuần tháng Hai (Dương-Lịch).
Việc chuẩn bị cho Tết Nguyên-Đán bắt đầu ngay sau ngày cúng Thần Bếp, nhằm ngày 23, tháng Chạp (Âm-Lịch).  Thần Bếp chính là Táo-Quân (thường hay bị nhầm lẫn với Thổ-Công hay Thổ-Địa).  Để phân biệt Thổ-Công và Táo Quân thì Thổ-Công được trình bầy trên bàn Thờ bằng một cặp vợ chồng, còn Táo-Quân là một bộ ba; gồm một Thần Nữ có hai Thần Nam kề bên.  Theo lời dậy truyền của các nhà Nho, người ta thường công nhận rằng Thổ-Công được gộp trong bộ ba đó; gồm Thổ Kỳ, Thổ Địa và Thổ Công.  Các vị này được tiêu biểu bằng ba hòn gạch xếp thành cái kiềng đun bếp.  Hòn thứ nhất tiêu biểu cho "Đất Nước" nói chung.  Hòn thứ hai là "Đất trong Nhà" và hòn thứ ba là "Thần Bếp".
Theo truyền-thuyết kể rằng: ngày xửa, ngày xưa có đôi vợ chồng, người chồng tên Trọng-Cao; vợ là Thị-Nhi.   Vì ở với nhau mãi mà không có con cái nên tính tình họ trở nên cáu gắt.  Rồi đến một ngày kia Trọng-Cao trở thành kẻ nghiện rượu và cờ bạc hư hỏng; lại đối xử ngược đãi với vợ mình là Thị-Nhi.  Nàng bỏ nhà ra đi, sau đó tái hôn với  Phạm-Lang, là một người chồng tốt chăm chỉ ruộng vườn, thương yêu nàng hết mực.  Thị-Nhi và Phạm-Lang sống rất hạnh-phúc bên nhau, trong khi Trọng-Cao - người chồng cũ của nàng sống cảnh cơ-hàn, phải đi ăn xin khắp các nẻo đường.  Đến một ngày kia Trọng-Cao đói lả người, ngã trước cửa nhà Thị-Nhi.  Nàng nhận ra người chồng cũ; đem lòng thương-xót, cho anh vào nhà ăn uống.  Trọng-Cao khốn khổ ăn xong thì ngã lăn ra đất mà ngủ.  Thị-Nhi thấy Phạm-Lang chồng của mình sắp trở về nhà bèn khiêng Trọng-Cao dấu kín vào trong một đống rơm ở giữa đồng.  Nào ngờ sau bữa cơm tối, trước khi đi nghỉ Phạm-Lang nghĩ đến công việc là phải đốt rơm để sáng hôm sau rắc tro lên thửa ruộng lúa mà cầy.  Phạm-Lang vô tình châm lửa vào đống rơm có Trọng-Cao đang ngủ say trong đó,  Thị-Nhi thấy lửa cháy và nghĩ mình là nguyên-nhân vụ ngộ sát Trọng-Cao, rồi để tự trừng-phạt nàng lao vào ngọn lửa.  Phạm-Lang yêu vợ tha thiết, thấy thế cũng nhảy theo nàng.  Người đầy-tớ trung-thành trong nhà nhìn thấy ông-bà chủ chân tay co quắp trong đống lửa hồng nên cũng lao đầu vào chết theo.
Về sau, người ta đặt tên cho hòn đá đặt hai bên bếp lửa là "Ông"; nhắc lại hai người chồng.  Hòn đá đặt phía trước là "Bà"; hiện thân của người vợ.  Có một viên cuội đặt trên than để không cho lửa cháy quá nhanh đó là hòn "Lộc"; tiêu-biểu cho người đầy-tớ trung-thành.  Thượng-Đế ở trên Trời xúc động trước tấm bi-kịch này bèn giao cho họ trông nom bếp núc của tất-cả các gia-đình trên thế-gian và đánh-giá mọi hành-vi của con người trong năm.  Sau đó sẽ trình tấu lên Ngọc-Hoàng Thượng-Đế vào ngày 23, tháng Chạp (Âm-Lịch).
Cho đến ngày hôm nay, ở Việt-Nam rất nhiều người vẫn tìm mọi cách lấy lòng các vị Thần Bếp đó, họ cúng cho các vị này một bữa cỗ thật thịnh-soạn, đốt cho các Thần những chiếc mũ tuyệt đẹp trang điểm hoa sặc sỡ, nhiều thoi vàng và bạc bằng hàng mã (giấy).  Người ta thả xuống khúc sông gần nhất những con cá Chép dùng làm ngựa cho các Thần đó cưỡi trên chặng đường mây dài từ Đất lên Trời hầu mong được ơn phúc.  Hủ-tục này cũng bị người đời châm-biếm vì những sự ác-độc của con người trong năm, họ không hoán cải sống thiện, sống lành.  Chỉ mong làm vui lòng Táo Ông, Táo Bà để lập công với Thượng- Đế trong việc cúng tế mà thôi.
 Ngày mùng 1 Tết Nguyên-Đán theo phong-tục, tập-quán của người Việt-Nam xưa kia, người ta thổi ống Tiêu để đoán tính chất điều-kiện khí hậu trong suốt một năm.  Người ta cũng uống rượu để xua đi các hơi lạnh và tử-khí.  Ngoài ra còn có một hủ-tục nữa là tục "Đốt Vàng Mã" nhằm xua đuổi hiểm-họa, binh đao.  Người ta giặt quần áo để tránh mọi bệnh tật đồng thời may áo mới để tránh sự khốn khó suốt trong năm.
Xưa kia ở miền Bắc, trước nửa tháng Tết, những Ông Thầy Đồ ra chợ trải chiếu ngồi để viết câu đối bán.  Người nào đi buôn hoặc đi làm ăn xa xôi đều nghỉ việc để về nhà ăn Tết.  Những ngày cuối năm ai nấy cũng dọn dẹp, chùi rửa mọi vật dụng, nhất là các lư-hương trên bàn Thờ sáng choang.  Có người dán tranh Quan-Tướng trước cửa nhà hoặc dán bốn chữ "Thần Trà - Uất Lũy", nhằm để ma quỷ sợ không dám vào nhà họ (theo điển tích đây là tên hai ông Thần ở dưới một gốc cây đào lớn thuộc núi Độ-Sóc; cai quản đàn Quỷ dữ.  Hễ Quỷ nào làm hại nhân-gian thì Thần ấy sẽ giết đi mà ăn thịt).   Có nhiều nhà chặt tre làm cây Nêu hoặc lấy cành Đa, lá Dứa cài ngoài cửa ngõ hoặc rắc vôi bột, vẽ bàn cờ, cái Cung, cái Nỏ trong sân…Tất cả đều có ý trừ Quỷ, không muốn chúng vào nhà họ quấy phá trong năm mới.

Nửa đêm 30, rạng sáng mùng 1 Tết, nhà nào cũng bày Hương-Án ra giữa sân để cúng Giao-Thừa.  Ở những thôn xóm nhỏ trong làng quê họ cúng Tế nơi có trống đánh và pháo đốt.  Tập tục nước ta tin rằng mỗi năm đều có một Ông Hành-Khiển coi việc nhân-gian, hết năm thì Thần nọ bàn-giao công việc cho Thần kia, cho nên việc cúng tế là để tiễn đưa "Ông" cũ và đón "Ông" mới về.
Đến sáng mùng 1 Tết phải làm cỗ cúng Gia-Tiên, có bánh-chưng, giò chả, dưa hành…Người miền Nam thường cúng ngũ quả, trong đó bắt buộc phải có: Mẵng-Cầu, Dưa-Hấu, Dừa, Đu-Đủ, Xoài. Ý cầu xin Trời Phật, Ông-Bà  cho được: "Cầu Vừa Đủ Xài" (tiếng miền Nam phát âm trại từ "Vừa" thành "Dừa", "Xoài" thành "Xài" ).   Có nhà dựng hai cây Mía cạnh bàn thờ để làm gậy chống cho "Ông Vải". 
Trong ngày này ai ai cũng phải giữ-gìn từng  "lời ăn, tiếng nói" vì họ sợ nói bậy sẽ "Dông" cả năm.  Nhiều gia-đình nhờ một người phúc-hậu, nhanh nhẹn, khỏe mạnh, nhân-từ; sáng sớm mùng 1 Tết đến "Xông Đất" nhằm mưu cầu cho cả năm mọi người trong nhà được mọi sự may mắn tốt lành, không bị đau ốm vặt.
Có người kiêng không được quét nhà hoặc hốt rác, chỉ vun vào một xó, đợi sau ba hôm động-thổ rồi mới đem đi đổ.  Tục truyền kể rằng trong "Sưu Thần-Ký" của Trung-Hoa có câu chuyện một người làm nghề lái-buôn tên Âu-Minh một hôm đi qua hồ Thanh-Thảo, Thủy-Thần cho một nàng tên Như-Nguyện theo chân về nhà hầu hạ Âu-Minh được vài năm, chàng trở nên giàu có.  Vào ngày mùng 1 Tết năm ấy, Âu-Minh say khướt trở nên hung-hãn đánh đập Như-Nguyện, nàng hầu sợ quá chui vào đống rác rồi biến mất về với Thủy-Thần.  Từ đó trở đi cơ-nghiệp nhà Âu-Minh sa sút trầm trọng.  Theo tục này, người ta kiêng không dám hốt rác trong ba ngày Tết vì sợ bị khó nghèo.
Cũng trong mùng 1 Tết Nguyên-Đán, cúng Gia-Tiên xong, con cháu quây quần quỳ cúi lậy hai lậy dưới chân Ông Bà, Cha Mẹ để "Mừng Tuổi".  Sau đó Ông Bà, Cha Mẹ cũng "Mừng Tuổi" lại bằng cách "Lì-Xì" cho con cháu.
Người xưa có câu: "Mùng 1 Tết Mẹ, Tết Cha.  Mùng 2 Tết Chú, Mùng 3 Tết Thầy".  Họ hàng thân-tộc, thầy trò, bạn hữu, xóm giềng đến nhà nhau chúc Tết với những câu như: "Thăng Quan, Tiến Chức", "Sinh Năm, Sinh Bảy", "Vạn Sự Như Ý", "Buôn Bán Phát Tài", "Học Hành Tấn Tới", "Sức Khỏe Dồi Dào"…
Trong những hôm Tết, có người chọn ngày hợp tuổi, giờ tốt để "Xuất Hành" đúng hướng, người đi Chùa hái Lộc (hoa trái) về cài vào cửa nhà.  Người làm Quan chọn ngày "Khai Ấn".  Học-Trò chọn ngày "Khai Bút".  Người buôn bán chọn ngày mở cửa hàng.  Nông-Phu chọn ngày tốt để làm "Lễ Động-Thổ"…Tất cả đều mưu cầu mọi sự may mắn, tốt đẹp cho trọn năm tới.
Tết Nguyên-Đán ngày xưa bắt buộc phải có đốt pháo.  Điển tích này trong "Kinh Sở Tuế Thời Ký" của người Tàu kể rằng Sơn-Tiêu (tức là Ma Núi) trong ngày đầu năm khi chạm vào người nào, người đó sẽ bị đau ốm cả năm.  Nó chỉ sợ tiếng pháo, hễ đốt pháo thì nó sẽ không dám đến gần người ta.   Nhưng theo truyền-thuyết của người Việt-Nam thì tiếng pháo nổ dòn tan là tiếng vui mừng đón Xuân chứ không có ý trừ ma quỷ.
Sau ba ngày Tết, sang mùng 4 dân-gian có hủ-tục "Hóa Vàng" (đốt những tờ tiền, quần áo, nhà xe…bằng hàng mã dùng để cúng người quá-vãng với hy-vọng họ dùng được trong thế-giới bên kia).  Nếu rơi đúng vào ngày kỵ tuổi của chủ nhà thì họ sẽ "Hóa Vàng" trước hay sau một ngày đều được.
Các truyền-thống cổ xưa không còn được áp dụng nhiều vào ngày nay.  Nhưng chẳng có biến cố nào của thế-giới bên ngoài có thể cướp đi ở người Việt-Nam nghèo nhất đến kẻ giàu nhất niềm vui đón Tết-Nguyên-Đán.
Ngày xưa vào năm 1789. Vua Quang-Trung đã phải cho binh-sĩ  ăn mừng Tết Nguyên-Đán trước mấy ngày rồi mới bất ngờ phục kích quân Trung-Quốc đóng ở Hà-Nội vào giữa ngày Lễ Hội Truyền-Thống trước khi nhà Vua tiến quân đánh chiếm lại xứ Bắc, Việt-Nam.
Trong thời-kỳ chiến-tranh khốc liệt nhất các chiến-sĩ Quân-Lực Việt-Nam-Cộng-Hòa cũng đón Xuân nơi tiền đồn khi thấy mai vàng khoe sắc thắm và trong các học-đường thường tổ-chức "Cây Mùa Xuân cho Chiến-Sĩ" nhằm gửi quà, khăn quàng hay áo ấm đến những anh-hùng nơi tuyến đầu tổ-quốc.  Tôi còn thuộc lòng một bài "Ám Đọc" thời niên-thiếu:
"Mùa Xuân đến nơi xa trường gió lạnh.
Người quân-nhân lăn lộn với gió sương.
Gia-đình em đang sống cảnh yêu thương.
Em đâu nỡ quên chàng trai dũng-mãnh.
Đây chiếc áo len đan trong đêm lạnh.
Nền xanh lam thêu đậm nét vàng tươi.
Em gửi tặng chàng chiến-sĩ xa xôi.
Để ấp ủ lòng người nơi biên ải"
Đã trải qua mấy mươi cái Tết biệt xứ tha hương.  Giờ tôi mới nhớ ra mùa Tết năm đó cũng là cái Tết đầu tiên tôi biết đan áo và khăn quàng; không biết chiếc áo và khăn quàng do chính tay tôi đan gửi anh lính-chiến ngày xưa giờ đi về đâu cũng như "Anh" đang lưu lạc chốn nào"  Nhưng tôi chắc chắn rằng lòng tri-ơn chân tình quý trọng của tôi dành cho "Anh" là muôn đời, bất di-bất dịch.
Cảm-ơn "Anh": những chiến-sĩ ngày nay là các Cựu Quân-Nhân Quân-Lực Việt-Nam-Cộng-Hòa cùng những Chiến-Sĩ Đồng-Minh trong mọi binh-chủng;  những người đã hy-sinh canh giữ biên thùy, cho tôi mừng bao nhiêu cái Tết Nguyên-Đán nơi thành-phố Saigon vô cùng an-bình hạnh-phúc năm xưa.  Cảm-ơn Anh: Những Người Chiến-Sĩ Vô-Danh…
Chân Quê

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.