Hôm nay,  

Hoa Kỳ Và Iran: Nhập Sòng Đàm Phán

20/05/200700:00:00(Xem: 9586)

...Dưới sự giám trận và phá hoại của al-Qaeda và Quốc hội Mỹ...

Cuối cùng thì Mỹ và Iran đã công khai công nhận là đôi bên bắt đầu mở cuộc đàm phán về Iraq.

Trên cột báo này, trong số ra ngày mùng bảy tháng Tư ("Úynh hay không Uýnh"") người viết đã phân tách hoàn cảnh của hai nước để kết luận rằng Hoa Kỳ sẽ không (thể) tấn công Iran mà thực ra đôi bên đang ở trong giai đoạn vừa đấu trí vừa đấu lực, vừa đánh vừa đàm, chứ không chính thức khai chiến. Tuần qua, hai bên đã thông báo sẽ có những tiếp xúc song phương để thảo luận về Iraq. Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad xác nhận điều đó hôm 13, và cho biết đôi bên sẽ gặp nhau tại Baghdad vào ngày 28 này. Về phần Hoa Kỳ, lời xác nhận xuất phát từ Phó Tổng thống Dick Cheney và Hội đồng An ninh Quốc gia.

Nghĩa là ở cấp bậc khó có thể chính thức hơn.

Thật ra, hai nước đã có những tiếp xúc từ trước, nhưng trong khung cảnh của hội nghị quốc tế, hồi tháng Ba tại Baghdad và tháng Năm tại Sharm el-Sheihk bên Egypt. Và từ tháng Ba năm ngoái, Đại sứ đương nhiệm của Hoa Kỳ tại Baghdad cũng đã đề cập tới việc đối thoại với Iran để giải quyết chuyện Iraq, và ông Zalmay Khalilzad này còn cho biết là có sự đồng ý của Ngoại trưởng Condoleezza Rice. Chuyện tháng Ba năm ngoái không thành, nay mới bắt đầu nhen nhúm.

Sau khi đã thấy sự bất khả của giải pháp dụng binh thì đôi bên phải dụng lễ. Tất nhiên họ đã thỏa thuận về thể thức hay thủ tục rồi nên mới chính thức công bố việc thương thuyết này.

Câu hỏi đầu tiên của mọi người là vì sao đôi bên lại đàm phán vào lúc này"

Nhìn từ Iran, Chính quyền Bush đang ở vào thế yếu và Tehran có một đồng minh khách quan là đảng Dân chủ trong Quốc hội Hoa Kỳ để cột tay ông Bush còn chặt hơn. Mặc cả với người yếu thế thì vẫn có lợi. Nhưng, nếu để trễ hơn nữa, đảng Dân chủ sẽ chột dạ và lật lọng để khỏi gánh trách nhiệm trong một năm bầu cử như đảng này đã từng bị vì vụ cột tay miền Nam Việt Nam năm 1974. Các Giáo chủ Tehran học thuộc bài bản chính trị Hoa Kỳ và hồ sơ Việt Nam hơn ta có thể nghĩ. Thực tế là vào năm 1979 họ đã trục lợi nhờ bài học đó về sự thất bại của Hoa Kỳ.

Nhưng họ cũng hiểu chuyện già néo đứt dây.

Nếu để trễ quá, Tehran sẽ phải nói chuyện với một Tổng thống tân cử của Mỹ, một nhân vật không bị mắc mứu gì trong Chính quyền Bush và có thế mạnh hơn gấp bội. Tehran còn nhớ điều ấy khi dại dột từ chối đàm phán với Chính quyền Carter về vụ bắt giữ 52 con tin là nhân viên ngoại giao của Mỹ để rồi gặp tay cứng cựa hơn ở Toà Bạch Cung năm 1981, khi Ronald Reagan nhậm chức Tổng thống. Họ không quên lỗi lầm năm 1980.

Nhìn từ Hoa Kỳ, chuyện Iraq khiến nước Mỹ xuất huyết và cuộc tranh cử 2008 đòi hỏi Chính quyền Bush phải có một chút thành tích chống khủng bố al-Qaeda hay hy vọng ổn định Iraq hầu chứng minh với cử tri. Khi 11 Dân biểu Cộng hoà lạnh cẳng vào gặp Tổng thống để phàn nàn, họ đã sớm chạy ra thông báo điều đó cho báo chí. Những con chuột nhắt này không muốn bị chìm cùng con tầu của Bush. Và ông Bush không muốn mang tội như Carter là làm cho đảng thất cử vì một thất bại đối ngoại.

Nhưng, George W. Bush không là Gerald Ford hay Jimmy Carter.

Bị đẩy tới đường cùng, Bush vẫn không chịu thua mà từ đầu năm đòi dồn quân đánh tiếp, làm Tehran chột dạ. Truyền thông Hoa Kỳ không thấy là đòn đánh dứ này bắt đầu công hiệu tại cả Iraq và với cả Iran. Đây là lúc Chính quyền Bush có thể tìm giải pháp triệt thoái khỏi vùng hoả tuyến mà không nhuốm màu tháo chạy. Muốn như vậy thì phải nói chuyện thẳng với một trong những tay chủ chi canh bạc ở bên kia chiến hào, là Iran.

Không xẵng giọng thì khó nói chuyện phải quấy được!

Nếu đảng Dân chủ có một chút xương sống thì cái thế đàm phán của Mỹ có thể mạnh hơn đôi chút, nhưng, gặp nước bài thế nào thì ông Bush đành chơi thế vậy. Do đó, Chính quyền Bush mới thực sự nói chuyện, mà vẫn có vẻ là không đi theo nước cờ của kẻ chầu rìa, là Tư lệnh Triệt thoái - Ủy ban Baker-Hamilton.

Bây giờ, đôi bên sẽ nói những gì vì muốn những gì"

Theo cái thế "cờ trong bạc ngoài", người ta có thể đoán rằng Hoa Kỳ muốn thành lập một Chính quyền Iraq (có thể với hệ phái Shia chiếm thượng phong nhưng vẫn) độc lập với Tehran, hữu nghị với các nước Á Rập Sunni lân cận và nhất là chống các nhóm khủng bố ngụy danh Thánh chiến (trước hết là al-Qaeda).

Sở dĩ như vậy là vì ba chuỗi lý do sau đây nhìn từ quyền lợi Hoa Kỳ:

Vì không thể là một xứ dân chủ, và thân Mỹ như Jordan, Egypt hay Saudi Arabia, ít ra Iraq phải là một quốc gia thống nhất và độc lập, không là chư hầu của Iran, hay một hậu cứ cho Tehran khuynh đảo toàn vùng. Thứ hai, Hoa Kỳ sẽ rút mà không ra khỏi Iraq, và nhất là không lật đật tháo chạy vì sẽ gây bối rối và khủng hoảng do phản ứng tự vệ của các nước Á Rập theo hệ phái Sunni (chủ yếu là Saudi Arabia, Egypt và Jordan), vốn cũng là những đồng minh lâu đời trong khu vực Trung Đông. Quan trọng nhất, Iraq sẽ không thể là hậu cứ cho các nhóm Thánh chiến Jihad mặc sức tung hoành với sự đồng lõa hay trước sự lặng thinh của các quốc gia Sunni (hầu chặn đà bành trướng của Iran theo hệ phái Shia).

Phần mình, Tehran có nêu khá rõ những yêu cầu của mình nhân hội nghị Sharm el-Sheihk ngày mùng bốn và được báo chí tiết lộ hôm mùng năm tháng này.

Trước hết - và Quốc hội Mỹ không nhìn ra mà chỉ tấn công Chính quyền Bush để lấy thành quả biểu kiến - Iran không muốn Hoa Kỳ và liên quân quốc tế lập tức rút khỏi Iraq vì sẽ để lại một khoảng trống cho những chuyển động bất ngờ mà Tehran không lường được. Và nhất là không thể kiểm soát nổi. Iraq là một xứ rộng lớn và đang có quá nhiều lực lượng rõ trang tự lập và tự phát với những chân rết có khi ăn sâu vào hai xứ lân bang là Turkey và Iran! Tehran muốn Hoa Kỳ giảm dần ảnh hưởng nhưng theo lịch trình và bài bản mà họ xử lý được. Giải pháp ngoại giao là "giúp Hoa Kỳ lối thoát danh dự" thực chất là cần Mỹ làm nốt nhiệm vụ bảo an và bàn giao lại những gì đã tương đối có quy củ!

Và nhất là còn kiểm soát hay khống chế được hai thành phần Sunni và Kurd.

Nhìn trên đại thể thì yêu cầu này của các Giáo chủ không phải là nghịch lý.

Hoa Kỳ không thể quay lưng lại Trung Đông và tháo gỡ mọi căn cứ tại Iraq. Thế chiến II đã kết thúc năm 1945, Chiến tranh Cao Ly ngưng bắn năm 1953, và Chiến tranh lạnh đã tàn năm 1991, nhưng Hoa Kỳ vẫn đồn trú quân đội tại Đức, Nhật và Nam Hàn, cho sự ổn định của các khu vực ấy. Các Giáo chủ Iran không là người lãng mạn mà đòi tối đa để nuốt không được.

Yêu cầu thứ hai của Tehran thực ra cũng gần với quan điểm của Mỹ.

Họ muốn Iraq thống nhất, nhưng không bị chia ba theo thể chế liên bang khiến phe Shia bị mất thế thống trị và hai sắc tộc kia sẽ có toàn quyền quyết định về những gì xảy ra trong lãnh vực (hay "tiểu bang") của họ. Muốn như vậy thì cũng phải phần nào thỏa mãn những đòi hỏi của phe Sunni, vốn sinh sống tại miền Trung có rất ít dầu khí trong một cơ chế chính trị khả dĩ đáp ứng được nguyện vọng của dân Sunni và Kurd.

Từ mục tiêu ấy, ta mới thấy ra một yêu cầu thứ ba của Tehran. Hoa Kỳ và Iran phải có kế hoạch hoà giải và hoà hợp ba thành phần sắc tộc (Shia 60% dân số, Sunni 20% và Kurd 20%) với một điều kiện then chốt: cộng đồng Sunni có nhiệm vụ truy lùng và giải trừ cho hết nọc Thánh chiến, dù là Thánh chiến nội địa (dân Sunni tại Iraq) hay ngoại nhập. Yêu cầu này hoàn toàn phù hợp với mong muốn của Hoa Kỳ. Đôi bên đều không muốn al-Qaeda tồn tại ở Iraq. Thật ra Tehran cũng chống khủng bố chẳng thua gì Mỹ - nhưng là khủng bố theo hệ phái Sunni!

Yêu cầu thứ tư là điều Hoa Kỳ khó chấp nhận hơn, các lân bang của Iran cũng vậy.

Đó là Iraq phải nằm trong vùng ảnh hưởng của Iran. Điều mơ hồ này thật ra rất khó chấp nhận cho các nước Ả Rập Sunni - đồng minh của Mỹ - và Hoa Kỳ chỉ có thể đồng ý là trong nội bộ Iraq, phe Shia sẽ chiếm thế mạnh. Mạnh như thế nào là điều còn bàn cãi, và thi hành qua hiến pháp, luật lệ và chánh sách, tức là còn lâu mới ngã ngũ.

Tuy nhiên, sự tắc nghẽn của chuyện đàm phán có thể không xuất phát từ yêu cầu số bốn ấy mà từ một đòi hỏi khác của Tehran: phải cùng thảo luận hai hồ sơ là Iraq và võ khí hạch tâm của Iran. Lập trường của Hoa Kỳ là tách riêng hai chuyện. Iraq là vấn đề song phương giữa hai nước (với sự đồng ý của các nước Sunni lân bang, là điều Phó Tổng thống Dick Cheney muốn giải thích trong chuyến thăm viếng các nước này vào tuần qua). Kế hoạch hạch tâm của Iran là vấn đề đa phương, của Liên hiệp quốc - và cả ba nước Âu Châu ngoài Hoa Kỳ là Anh, Đức, Pháp.

Nếu Washington đạt thỏa thuận với Tehran về Iraq rồi, Hoa Kỳ sẽ có thế mạnh để vận động quốc tế gây áp lực và trừng phạt Tehran vì muốn chế tạo võ khí hạch tâm. Hiểu như vậy, các Giáo chủ Iran đòi lồng hai chuyện làm một để nhân khi Bush yếu thế thì giàng chuyện hạch tâm vào vòng đàm phán khiến Hoa Kỳ khó ép các nước kia trừng phạt Iran.

Quốc hội Mỹ không thèm hiểu vậy nên vừa đòi Hành pháp rút quân vừa bẻ gãy một đòn bẩy trong tay Tổng thống về chuyện ngăn ngừa Iran chế tạo võ khí hạch tâm. Đâm ra chính là sự suy nhược thần kinh của đảng Dân chủ mới khiến Hoa Kỳ chưa thể đàm phán với Tehran như nhiều lãnh tụ Dân chủ đòi hỏi. Và Tổng thống Mỹ vào năm 2009 sẽ phải xử lý chuyện hạch tâm này, có khi quá trễ vì nếu Tehran mà có võ khí tàn sát tuyệt đối này, Saudi Arabia cũng chẳng ngồi yên, và Israel sẽ động thủ!

Dù mới chỉ điểm sơ về ý muốn và yêu cầu đôi bên, người ta đã có thể thấy rằng Iran và Hoa Kỳ thật ra có nhiều quan điểm tương đồng. Hai trở ngại chính có thể khiến việc đàm phán kéo dài mà Iraq vẫn chưa ổn định là khủng bố Al Qaeda và... Quốc hội Mỹ. Đó là cái giá phải trả cho nền dân chủ và cho các chính khách vốn coi chuyện tranh cử là chính.

Thắng Mỹ không khó, dù là ngoài chiến trường hay trên bàn đàm phán. Đàm phán Paris cho "hòa bình" Việt Nam là một thí dụ mà người Mỹ đã quên - mà nhiều người Việt vẫn còn nhớ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hai tháng đã trôi qua. Trên những diễn đàn mạng xã hội và cả trong những cuộc đối thoại đời thường, rất nhiều người thổ lộ về một thói quen vừa xuất hiện: đếm xem còn bao nhiêu ngày nữa kết thúc nhiệm kỳ bốn năm của chính quyền hiện tại. “Đếm thời gian trôi” vốn không phải là một thói quen tích cực trong đời sống. Nó phản chiếu tâm trạng chán nản, buông xuôi, thậm chí là sợ hãi. Hàng loạt câu hỏi “Chúng ta phải làm gì?”; “Rồi chuyện gì nữa?”; “Chúng ta đang sống ở thời đại nào?”… Trong đó, câu hỏi lớn nhất, và biểu lộ sự phẫn nộ của người dân nhất, đó là: “Đảng Dân Chủ đang làm gì?”
Người tị nạn đã không còn được chào đón tại Hoa Kỳ kể từ ngày đầu tiên trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Donald Trump. Ngay trong ngày nhậm chức 20 tháng 1 năm 2025, ông đã ký một sắc lệnh hành pháp đình chỉ Chương trình Tiếp nhận Người tị nạn của Hoa Kỳ (U.S. Refugee Admissions Program, USRAP) trong vòng 90 ngày. Dù vào tháng 2 năm 2025, tòa án liên bang đã ra phán quyết yêu cầu khôi phục chương trình tái định cư người tị nạn, chính quyền Trump vẫn khẳng định rằng không thể thực hiện điều đó ngay lập tức, do hệ thống tiếp nhận người tị nạn đã bị giải thể gần như toàn bộ.
Trong bài diễn văn dài 90 phút trước Quốc hội Hoa Kỳ, Donald Trump nhắc lại tham vọng “giành lấy” Greenland “bằng cách này hay cách khác.” Trump tuyên bố rằng Greenland có ý nghĩa “sống còn đối với an ninh quốc gia” của Hoa Kỳ. Dù nhấn mạnh rằng chính phủ của mình “hoàn toàn ủng hộ quyền tự quyết của Greenland,” ông vẫn không quên mời gọi “nếu các bạn đổi ý, chúng tôi sẵn sàng chào đón các bạn gia nhập Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.”
Khi Ukraine từ bỏ kho vũ khí nguyên tử và tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT Nuclear Nonproliferation Treaty) với tư cách là một quốc gia phi hạt nhân vào năm 1994, họ đã thi hành một phần của Bản ghi nhớ Budapest (Budapest Memorandum), gồm một số các đảm bảo an ninh bởi Nga, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Những đảm bảo này nhằm bảo vệ chủ quyền của Kyiv, và biên giới của họ sẽ được tôn trọng. Nhưng khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014 và tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022, những cam kết đó đã chứng tỏ là vô nghĩa. Ukraine thấy mình đơn độc, sự sống còn phụ thuộc vào thiện chí của phương Tây và nằm trong tay một kẻ thù được trang bị bằng chính những vũ khí mà Kyiv đã giao nộp. Những tác động này không dừng tại Ukraine mà lan rộng. Trên toàn cầu, các chính phủ đang đánh giá lại ý nghĩa thực sự của các bảo đảm an ninh.
Trong thế giới đấu tranh sinh tồn của loài vật, chuyện cá lớn nuốt cá bé là điều không thể tránh khỏi. Nhưng trong xã hội loài người ngày nay dù đã bước vào thiên niên kỷ thứ ba hơn hai thập niên và được mệnh danh là thời đại văn minh tiến bộ vượt bực vẫn không thiếu chuyện kẻ mạnh ăn hiếp người yếu trong mối quan hệ giữa người với người. Tình trạng mạnh hiếp yếu còn diễn ra khốc liệt hơn trong mối quan hệ ở cấp quốc gia: nước lớn bắt nạt hay xâm lăng nước nhỏ. Ở đây cũng xin giải thích một chút về cách dùng chữ nhược tiểu trong tiêu đề của bài viết này. Chữ nhược tiểu dùng trong bài này hoàn toàn không có ý nghĩa đánh giá tiêu cực về quốc gia được đề cập đến. Chữ nhược tiểu dùng trong bài này là để chỉ cho sự yếu kém về quân sự và kinh tế so với những nước mạnh về quân sự và kinh tế đi xâm lược. Sự yếu kém về quân sự và kinh tế không đồng nghĩa với sự yếu kém về quyết tâm và đồng lòng bảo vệ đất nước của quốc gia bị xâm lược. Ngược lại, cuộc chiến tại Ukraine hiện nay và Việt Nam
Trong lịch sử thế giới, Việt Nam là dân tộc đã trải qua một cuộc nội chiến với kết quả là bản án tử kết thúc chế độ tự do dân chủ miền Nam ngày 30/4/1975. Hơn ai hết, những người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) năm xưa hiểu rõ cảm giác “bị lừa dối” hoặc “bị phản bội” từ bản Hiệp Định Paris do Henry Kissinger và Lê Đức Thọ thỏa thuận sau lưng chính quyền VNCH, với sự ủng hộ của Tổng Thống Richard Nixon lúc đó. Vì thế mà kể từ khi Putin phát động cuộc tấn công xâm lược Ukraine ba năm trước, người dân Việt Nam luôn tỏ rõ lập trường cùng với các lãnh đạo Châu Âu đứng về phía dân tộc và đất nước Ukraine, trừ chính quyền CSVN đã hai lần bỏ phiếu trắng nghị quyết của Liên Hiệp Quốc.
Điều gì thực sự xảy ra khi niềm tin nơi người đàn ông ở Tòa Bạch Ốc đang lung lay? Chúng ta sắp tìm ra câu trả lời rồi. “Ông ta không thể cho biết khi nào Canada sẽ tổ chức bầu cử. Chuyện gì thực sự đang diễn ra ở đó? Ông ta đang cố gắng duy trì quyền lực phải không?” Donald Trump đã viết trên mạng xã hội sau cuộc trò chuyện với Thủ tướng Justin Trudeau vào tuần trước.
Tưởng tượng một khu vườn xinh đẹp như vườn thượng uyển của vua chúa ngày trước với hoa lá muôn màu lung linh trong gió hiền và nắng ấm. Rồi bỗng dưng một cơn mưa đá đổ xuống. Cây, lá, cành, nụ… đủ sắc màu quằn quại dưới những cục đá thả xuống từ không gian. Tàn cơn mưa, những nụ, những hoa, những cánh lá xanh non tan nát. Những cục nước đá tan đi. Bạn không còn tìm ra dấu vết thủ phạm, bạn chỉ thấy những thứ bạn phải gánh chịu: ấy là những tổn thất bất ngờ. Ở một nơi mà vô số các sắc tộc sống chung với nhau như Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, mỗi ngôn ngữ là một loài hoa đầy hương sắc trong khu vườn muôn sắc màu ấy. Nhưng rồi trong trận thiên tai, mỗi sắc lệnh của chính phủ là một hòn đá ném xuống, hoa lá cành tan nát theo nhau. Bạn không biết những cơn mưa đá còn bao lâu. Bạn cũng không thể nào đoán trước được những tổn thất chúng đổ xuống cho khu vườn yêu quý mà bạn dày công gầy dựng.
Elon Musk đang có một vị trí vô cùng quan trọng trong chính quyền mới của Trump. Là người đứng đầu Bộ Cải Tổ Chính phủ (Department of Government Efficiency – DOGE), Musk có quyền lực gần như vô hạn trong việc cắt giảm hoặc tái cơ cấu lại chính phủ liên bang theo ý mình. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Musk còn có ảnh hưởng đến tổng thống trong nhiều vấn đề chiến lược quan trọng. Một trong những vấn đề nổi bật chính là TQ. Trong khi phần lớn nội các của Trump đang theo đuổi chính sách cứng rắn đối đầu với Bắc Kinh, Musk lại là một ngoại lệ rõ rệt. Là một chuyên gia về quan hệ Mỹ - Trung, Linggong Kong (nghiên cứu sinh của trường Auburn University) không hề ngạc nhiên trước những phát biểu ủng hộ Bắc Kinh của Musk trong suốt nhiều năm qua. Bởi lẽ, từ trước đến nay, ông luôn tìm cách mở rộng hoạt động kinh doanh tại TQ.
Một nữ nhà văn sống ở Pháp, bày tỏ trên Facebook của bà rằng: “Xin tiền, rất khổ! Zelenski không chỉ khẩu chiến với Trump mà cả... Biden. Hai tổng thống đã cãi nhau trong một cuộc điện đàm tháng 6/2022, khi Biden nói với Zelensky rằng ông vừa phê duyệt thêm $1 tỷ viện trợ quân sự cho Ukraine, Zelenski lập tức liệt kê tất cả các khoản viện trợ bổ sung mà ông ấy cần. Sự không biết điều này đã khiến Biden mất bình tĩnh, ông liền nhắc nhở Zelenski rằng người Mỹ đã rất hào phóng với ông ấy và đất nước Ukraine, rằng ông ấy nên thể hiện lòng biết ơn nhiều hơn.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.