Hôm nay,  

Hoa Kỳ Và Iran: Nhập Sòng Đàm Phán

20/05/200700:00:00(Xem: 9620)

...Dưới sự giám trận và phá hoại của al-Qaeda và Quốc hội Mỹ...

Cuối cùng thì Mỹ và Iran đã công khai công nhận là đôi bên bắt đầu mở cuộc đàm phán về Iraq.

Trên cột báo này, trong số ra ngày mùng bảy tháng Tư ("Úynh hay không Uýnh"") người viết đã phân tách hoàn cảnh của hai nước để kết luận rằng Hoa Kỳ sẽ không (thể) tấn công Iran mà thực ra đôi bên đang ở trong giai đoạn vừa đấu trí vừa đấu lực, vừa đánh vừa đàm, chứ không chính thức khai chiến. Tuần qua, hai bên đã thông báo sẽ có những tiếp xúc song phương để thảo luận về Iraq. Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad xác nhận điều đó hôm 13, và cho biết đôi bên sẽ gặp nhau tại Baghdad vào ngày 28 này. Về phần Hoa Kỳ, lời xác nhận xuất phát từ Phó Tổng thống Dick Cheney và Hội đồng An ninh Quốc gia.

Nghĩa là ở cấp bậc khó có thể chính thức hơn.

Thật ra, hai nước đã có những tiếp xúc từ trước, nhưng trong khung cảnh của hội nghị quốc tế, hồi tháng Ba tại Baghdad và tháng Năm tại Sharm el-Sheihk bên Egypt. Và từ tháng Ba năm ngoái, Đại sứ đương nhiệm của Hoa Kỳ tại Baghdad cũng đã đề cập tới việc đối thoại với Iran để giải quyết chuyện Iraq, và ông Zalmay Khalilzad này còn cho biết là có sự đồng ý của Ngoại trưởng Condoleezza Rice. Chuyện tháng Ba năm ngoái không thành, nay mới bắt đầu nhen nhúm.

Sau khi đã thấy sự bất khả của giải pháp dụng binh thì đôi bên phải dụng lễ. Tất nhiên họ đã thỏa thuận về thể thức hay thủ tục rồi nên mới chính thức công bố việc thương thuyết này.

Câu hỏi đầu tiên của mọi người là vì sao đôi bên lại đàm phán vào lúc này"

Nhìn từ Iran, Chính quyền Bush đang ở vào thế yếu và Tehran có một đồng minh khách quan là đảng Dân chủ trong Quốc hội Hoa Kỳ để cột tay ông Bush còn chặt hơn. Mặc cả với người yếu thế thì vẫn có lợi. Nhưng, nếu để trễ hơn nữa, đảng Dân chủ sẽ chột dạ và lật lọng để khỏi gánh trách nhiệm trong một năm bầu cử như đảng này đã từng bị vì vụ cột tay miền Nam Việt Nam năm 1974. Các Giáo chủ Tehran học thuộc bài bản chính trị Hoa Kỳ và hồ sơ Việt Nam hơn ta có thể nghĩ. Thực tế là vào năm 1979 họ đã trục lợi nhờ bài học đó về sự thất bại của Hoa Kỳ.

Nhưng họ cũng hiểu chuyện già néo đứt dây.

Nếu để trễ quá, Tehran sẽ phải nói chuyện với một Tổng thống tân cử của Mỹ, một nhân vật không bị mắc mứu gì trong Chính quyền Bush và có thế mạnh hơn gấp bội. Tehran còn nhớ điều ấy khi dại dột từ chối đàm phán với Chính quyền Carter về vụ bắt giữ 52 con tin là nhân viên ngoại giao của Mỹ để rồi gặp tay cứng cựa hơn ở Toà Bạch Cung năm 1981, khi Ronald Reagan nhậm chức Tổng thống. Họ không quên lỗi lầm năm 1980.

Nhìn từ Hoa Kỳ, chuyện Iraq khiến nước Mỹ xuất huyết và cuộc tranh cử 2008 đòi hỏi Chính quyền Bush phải có một chút thành tích chống khủng bố al-Qaeda hay hy vọng ổn định Iraq hầu chứng minh với cử tri. Khi 11 Dân biểu Cộng hoà lạnh cẳng vào gặp Tổng thống để phàn nàn, họ đã sớm chạy ra thông báo điều đó cho báo chí. Những con chuột nhắt này không muốn bị chìm cùng con tầu của Bush. Và ông Bush không muốn mang tội như Carter là làm cho đảng thất cử vì một thất bại đối ngoại.

Nhưng, George W. Bush không là Gerald Ford hay Jimmy Carter.

Bị đẩy tới đường cùng, Bush vẫn không chịu thua mà từ đầu năm đòi dồn quân đánh tiếp, làm Tehran chột dạ. Truyền thông Hoa Kỳ không thấy là đòn đánh dứ này bắt đầu công hiệu tại cả Iraq và với cả Iran. Đây là lúc Chính quyền Bush có thể tìm giải pháp triệt thoái khỏi vùng hoả tuyến mà không nhuốm màu tháo chạy. Muốn như vậy thì phải nói chuyện thẳng với một trong những tay chủ chi canh bạc ở bên kia chiến hào, là Iran.

Không xẵng giọng thì khó nói chuyện phải quấy được!

Nếu đảng Dân chủ có một chút xương sống thì cái thế đàm phán của Mỹ có thể mạnh hơn đôi chút, nhưng, gặp nước bài thế nào thì ông Bush đành chơi thế vậy. Do đó, Chính quyền Bush mới thực sự nói chuyện, mà vẫn có vẻ là không đi theo nước cờ của kẻ chầu rìa, là Tư lệnh Triệt thoái - Ủy ban Baker-Hamilton.

Bây giờ, đôi bên sẽ nói những gì vì muốn những gì"

Theo cái thế "cờ trong bạc ngoài", người ta có thể đoán rằng Hoa Kỳ muốn thành lập một Chính quyền Iraq (có thể với hệ phái Shia chiếm thượng phong nhưng vẫn) độc lập với Tehran, hữu nghị với các nước Á Rập Sunni lân cận và nhất là chống các nhóm khủng bố ngụy danh Thánh chiến (trước hết là al-Qaeda).

Sở dĩ như vậy là vì ba chuỗi lý do sau đây nhìn từ quyền lợi Hoa Kỳ:

Vì không thể là một xứ dân chủ, và thân Mỹ như Jordan, Egypt hay Saudi Arabia, ít ra Iraq phải là một quốc gia thống nhất và độc lập, không là chư hầu của Iran, hay một hậu cứ cho Tehran khuynh đảo toàn vùng. Thứ hai, Hoa Kỳ sẽ rút mà không ra khỏi Iraq, và nhất là không lật đật tháo chạy vì sẽ gây bối rối và khủng hoảng do phản ứng tự vệ của các nước Á Rập theo hệ phái Sunni (chủ yếu là Saudi Arabia, Egypt và Jordan), vốn cũng là những đồng minh lâu đời trong khu vực Trung Đông. Quan trọng nhất, Iraq sẽ không thể là hậu cứ cho các nhóm Thánh chiến Jihad mặc sức tung hoành với sự đồng lõa hay trước sự lặng thinh của các quốc gia Sunni (hầu chặn đà bành trướng của Iran theo hệ phái Shia).

Phần mình, Tehran có nêu khá rõ những yêu cầu của mình nhân hội nghị Sharm el-Sheihk ngày mùng bốn và được báo chí tiết lộ hôm mùng năm tháng này.

Trước hết - và Quốc hội Mỹ không nhìn ra mà chỉ tấn công Chính quyền Bush để lấy thành quả biểu kiến - Iran không muốn Hoa Kỳ và liên quân quốc tế lập tức rút khỏi Iraq vì sẽ để lại một khoảng trống cho những chuyển động bất ngờ mà Tehran không lường được. Và nhất là không thể kiểm soát nổi. Iraq là một xứ rộng lớn và đang có quá nhiều lực lượng rõ trang tự lập và tự phát với những chân rết có khi ăn sâu vào hai xứ lân bang là Turkey và Iran! Tehran muốn Hoa Kỳ giảm dần ảnh hưởng nhưng theo lịch trình và bài bản mà họ xử lý được. Giải pháp ngoại giao là "giúp Hoa Kỳ lối thoát danh dự" thực chất là cần Mỹ làm nốt nhiệm vụ bảo an và bàn giao lại những gì đã tương đối có quy củ!

Và nhất là còn kiểm soát hay khống chế được hai thành phần Sunni và Kurd.

Nhìn trên đại thể thì yêu cầu này của các Giáo chủ không phải là nghịch lý.

Hoa Kỳ không thể quay lưng lại Trung Đông và tháo gỡ mọi căn cứ tại Iraq. Thế chiến II đã kết thúc năm 1945, Chiến tranh Cao Ly ngưng bắn năm 1953, và Chiến tranh lạnh đã tàn năm 1991, nhưng Hoa Kỳ vẫn đồn trú quân đội tại Đức, Nhật và Nam Hàn, cho sự ổn định của các khu vực ấy. Các Giáo chủ Iran không là người lãng mạn mà đòi tối đa để nuốt không được.

Yêu cầu thứ hai của Tehran thực ra cũng gần với quan điểm của Mỹ.

Họ muốn Iraq thống nhất, nhưng không bị chia ba theo thể chế liên bang khiến phe Shia bị mất thế thống trị và hai sắc tộc kia sẽ có toàn quyền quyết định về những gì xảy ra trong lãnh vực (hay "tiểu bang") của họ. Muốn như vậy thì cũng phải phần nào thỏa mãn những đòi hỏi của phe Sunni, vốn sinh sống tại miền Trung có rất ít dầu khí trong một cơ chế chính trị khả dĩ đáp ứng được nguyện vọng của dân Sunni và Kurd.

Từ mục tiêu ấy, ta mới thấy ra một yêu cầu thứ ba của Tehran. Hoa Kỳ và Iran phải có kế hoạch hoà giải và hoà hợp ba thành phần sắc tộc (Shia 60% dân số, Sunni 20% và Kurd 20%) với một điều kiện then chốt: cộng đồng Sunni có nhiệm vụ truy lùng và giải trừ cho hết nọc Thánh chiến, dù là Thánh chiến nội địa (dân Sunni tại Iraq) hay ngoại nhập. Yêu cầu này hoàn toàn phù hợp với mong muốn của Hoa Kỳ. Đôi bên đều không muốn al-Qaeda tồn tại ở Iraq. Thật ra Tehran cũng chống khủng bố chẳng thua gì Mỹ - nhưng là khủng bố theo hệ phái Sunni!

Yêu cầu thứ tư là điều Hoa Kỳ khó chấp nhận hơn, các lân bang của Iran cũng vậy.

Đó là Iraq phải nằm trong vùng ảnh hưởng của Iran. Điều mơ hồ này thật ra rất khó chấp nhận cho các nước Ả Rập Sunni - đồng minh của Mỹ - và Hoa Kỳ chỉ có thể đồng ý là trong nội bộ Iraq, phe Shia sẽ chiếm thế mạnh. Mạnh như thế nào là điều còn bàn cãi, và thi hành qua hiến pháp, luật lệ và chánh sách, tức là còn lâu mới ngã ngũ.

Tuy nhiên, sự tắc nghẽn của chuyện đàm phán có thể không xuất phát từ yêu cầu số bốn ấy mà từ một đòi hỏi khác của Tehran: phải cùng thảo luận hai hồ sơ là Iraq và võ khí hạch tâm của Iran. Lập trường của Hoa Kỳ là tách riêng hai chuyện. Iraq là vấn đề song phương giữa hai nước (với sự đồng ý của các nước Sunni lân bang, là điều Phó Tổng thống Dick Cheney muốn giải thích trong chuyến thăm viếng các nước này vào tuần qua). Kế hoạch hạch tâm của Iran là vấn đề đa phương, của Liên hiệp quốc - và cả ba nước Âu Châu ngoài Hoa Kỳ là Anh, Đức, Pháp.

Nếu Washington đạt thỏa thuận với Tehran về Iraq rồi, Hoa Kỳ sẽ có thế mạnh để vận động quốc tế gây áp lực và trừng phạt Tehran vì muốn chế tạo võ khí hạch tâm. Hiểu như vậy, các Giáo chủ Iran đòi lồng hai chuyện làm một để nhân khi Bush yếu thế thì giàng chuyện hạch tâm vào vòng đàm phán khiến Hoa Kỳ khó ép các nước kia trừng phạt Iran.

Quốc hội Mỹ không thèm hiểu vậy nên vừa đòi Hành pháp rút quân vừa bẻ gãy một đòn bẩy trong tay Tổng thống về chuyện ngăn ngừa Iran chế tạo võ khí hạch tâm. Đâm ra chính là sự suy nhược thần kinh của đảng Dân chủ mới khiến Hoa Kỳ chưa thể đàm phán với Tehran như nhiều lãnh tụ Dân chủ đòi hỏi. Và Tổng thống Mỹ vào năm 2009 sẽ phải xử lý chuyện hạch tâm này, có khi quá trễ vì nếu Tehran mà có võ khí tàn sát tuyệt đối này, Saudi Arabia cũng chẳng ngồi yên, và Israel sẽ động thủ!

Dù mới chỉ điểm sơ về ý muốn và yêu cầu đôi bên, người ta đã có thể thấy rằng Iran và Hoa Kỳ thật ra có nhiều quan điểm tương đồng. Hai trở ngại chính có thể khiến việc đàm phán kéo dài mà Iraq vẫn chưa ổn định là khủng bố Al Qaeda và... Quốc hội Mỹ. Đó là cái giá phải trả cho nền dân chủ và cho các chính khách vốn coi chuyện tranh cử là chính.

Thắng Mỹ không khó, dù là ngoài chiến trường hay trên bàn đàm phán. Đàm phán Paris cho "hòa bình" Việt Nam là một thí dụ mà người Mỹ đã quên - mà nhiều người Việt vẫn còn nhớ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi còn tại chức, không ít lần, T.T Nguyễn Xuân Phúc đã khiến cho dân tình hoang mang hay bối rối khi nghe những câu chữ rất lạ kỳ: “Quảng Ninh là đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Vĩnh Phúc sẽ vươn lên trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Long An phải trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Hải Phòng là đầu tàu quan trọng của cả nước’, ‘Bình Dương phải là đầu tàu phát triển kinh tế mạnh nhất của cả nước …”
Nhưng 64 năm sau (1960-2024), đảng đã thoái hóa, biến chất. Đảng viên thì tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống tự diễn biến và tự chuyển hóa, bài bác Chủ nghĩa Mác-Lênin và cả “tư tưởng Hồ Chí Minh” nữa...
Một tuần sau, sau khi dư luận nổi sóng về phát biểu của thiếu niên Chu Ngọc Quang Vinh (“tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”) tạm lắng – hôm 7 tháng 9 vừa qua – nhà văn Phạm Đình Trọng kết luận: “Sự việc cho thấy người dân, nhất là thế hệ trẻ đã có nhận thức sâu sắc về pháp luật, có ý thức về sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội”.
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.