Hôm nay,  

Nguồn Gốc Danh Từ Sài Gòn

25/10/200800:00:00(Xem: 15326)

Lời mở đầu:

Sài gòn là thành phố lớn nhất Việt Nam, nằm cạnh sông Sài gòn ở tọa độ 110°45' Bắc, 106°40' Đông (hay là 10.75, 106.667); và cách Hà nội 1760 cây số về phía Nam.

Trước khi “bị” người Việt chiếm ngụ vào thế kỷ 16,  Sài gòn có tên là “Prey Nokor,” là một hải cảng chính của Cam Bốt.  Sài gòn từng là thủ đô của chính quyền thực dân Pháp ở Đông dương, và sau đó cũng là thủ đô của chính thể Cộng hòa miền Nam Việt Nam từ năm 1954 cho đến năm 1975.  Sau năm 1975, Sài gòn bị đổi tên là Thành Phố HCM (").

Tên nguyên thủy theo tiếng Khmer

Tên nguyên thủy của Sài gòn là “Prey Nokor” và là lãnh thổ của người Khmer (Cam bốt).  Theo tiếng Phạn (Sankrit nagara), Prey Nokor có nghĩa là “thành phố rừng” (Prey = rừng; Nokor = đất, thành phố).  Ngày nay nhiều người Khmer ở Cam bốt và cả dân sắc tộc Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu long nhiều khi vẫn còn gọi Sài gòn là Prey Nokor.

Sài gòn tên nguyên thủy theo tiếng Việt

Ngay sau khi người Việt ồ ạt đến mở mang và định cư tại Prey Nokor, thành phố này đã được người Việt gọi là “Sài gòn.”  Có rất nhiều gỉa thuyết, tranh luận về nguồn gốc tên thành phố bằng chữ Việt (Sài gòn).  Các tranh luận về lịch sử của danh từ “Sài gòn”sẽ được bàn thêm ở phần dười dây.

Trước khi thực dân Pháp đến Việt Nam, triều đình Huế dùng tên chính thức của Sài gòn là “Gia định.”   Năm 1862, người Pháp bỏ chữ “Gia định” và thay vào đó bằng chữ “Sài gòn.”

Trên sử liệu (có lưu lại trên qua bản viết, in), người Việt đọc và viết chữ “Sài gòn” thành 2 chữ và 2 âm rõ rệt; tuy nhiên Pháp (và người tây phương) đã “tây phương hóa” 2 chữ “Sài gòn” thành một  chữ “Saigon” để cho họ dễ đọc và dễ viết.

Sài gòn theo quan điểm Việt Nam – Trung Hoa

Có người cho rằng chữ “Sài” được mượn từ tiếng Trung hoa (Tiếng Quan thọai đọc là “Chái”) có nghĩa là “củi, cành cây – firewood, twigs…)” còn chữ “Gòn” (tiếng Quan thọai đọc là “Gùn”) có nghĩa là “cọc, cây gậy – stick, pole, boles…)  Chữ “Gùn” bị chuyển hóa dần thành ra “Gòn” tương tự như “bông gòn – cotton stick, cotton plant.”

Có người lại cho rằng tên “Sài gòn” phát nguyên từ các cây bông gòn người Khmer trồng chung quanh Prey Nokor mà ngày nay chúng ta vẫn còn thấy rất nhiều ở quanh vùng Cây mai, Trương Vĩnh Ký…

Có một điểm lạ lùng là người Hoa sống ở Việt Nam cũng như ờ Trung quốc không dùng tên gọi “Sài gòn” (tiếng Quảng đông đọc là “Chaai-Gwan; tiếng Quan thọai đọc là “CháiGùn”) để gọi “Sài gòn” (mặc dù, như đã nói ở trên, nhiều sử liệu có ghi là người Việt mượn tiếng Trung hoa để đặt tên cho Sài gòn).  Chính người Hoa lại gọi “Sài gòn” là “Sai-Gung” (tiếng Quảng đông) và “XĩGòng” (tiếng Quan thọai).

Sài gòn theo quan điểm của người Khmer

Có một số tài liệu của Cam bốt cho là chữ “Saigon” chuyển hóa từ “Sai Con;” Và Chữ “Sai Con” đã chuyển hóa từ tiếng 2 chữ Khmer “Prey Kor” có nghĩa là “Rừng cây Kapok” (prey = rừng; kor = cây kapok).  Nên để ý và đừng lầm lẫn chữ “Prey Nokor” và “Prey Ko” (Ko = rừng cây kapok; Nokor – thành phố, đất).

Quan điểm của người Khmer ẩn tàng một ý có mục đích thuyết phục là họ đã có mặt ở đó (Sài gòn) trước khi người Việt đến định cư; tuy nhiên quan điểm này không gỉai thích được là tại sao chữ Khmer “prey” lại đổi thành chữ “Sài.”   Bởi vì, hiển nhiên, cách đọc của hai chữ này hòan tòan khác biệt với nhau!

Sài gòn theo quan điểm của người Quảng đông

Một gỉa thuyết đưa ra bởi học gỉa Vương Hồng Sển, một người Việt gốc Hoa ở Sài gòn, là nguồn gốc từ tiếng Quảng đông của danh từ “Sài gòn” lấy từ chữ “Chợ lớn” mà người Quảng đông đọc là “Tai-Ngon” có nghĩa là “bến tầu, cảng” (").

Tên hiện nay của Sài gòn

Sau khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản (30 tháng 4 năm 1975), chính quyền CS đổi tên thành phố Sài gòn là Thành Phố HCM (TP. HCM) (").  Tuy nhiên, đa số người dân Sài gòn vẫn gọi tên thành phố với cái tên quen thuộc cũ: “Sài gòn.”  Ngòai ra, hiện nay, tên “Sài gòn / Saigon” còn được dùng rất nhiều trong sách vở; được dùng cho các tên tựa sách, được dùng đặt tên cho các công ty thương mại.

Lịch sử đất (lãnh thổ) Sài gòn

Khởi đầu Sài gòn chỉ là một làng đánh cá rất nhỏ của người Khmer.  Người Khmer đã sống ở đó nhiều thế kỷ trước khi có người Việt đặt chân đến mở mang và định cư.  Người Khmer dùng “Prey Nokor” như một hải cảng thuộc về vương quốc Cam bốt.

Năm 1623, vua Chey Chetta II  (1618-1628) của Cam bốt đã cho phép những người Việt chạy lánh nạn “Trịnh Nguyễn phân tranh” đến tạm trú và định cư quanh vùng Prey Nokor.  Từ sau khi đó, có rất nhiều đợt di cư rất lớn của người Việt đến vùng Prey Nokor mà vương quốc Cam bốt không đủ mạnh để ngăn chặn họ.  Dần dà, Prey Nokor bị biến thành đất đai của người Việt; và sau cùng “Prey Nokor” biến thành “Sài gòn!”

Năm 1698,  triều đình Huế (Chúa Minh - Nguyễn Phúc Chu) sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh vào trấn nhậm vùng đất Sài Gòn-Gia Định. Kể từ thời điểm đó, miền đất này chính thức trở thành một đơn vị hành chính thuộc lãnh thổ Việt Nam.  Nguyễn Hữu Cảnh tách vùng đất Sài Gòn-Gia Định (và sau đó là vùng đồng bằng song Cử long) ra khỏi vương quốc Cam bốt.  Cam bốt vì quá yếu nên không có một kháng cự nào.  Nguyễn Hữu Cảnh được xem như những người đi tiên phong trong giai đọan bành trướng lãnh thổ của Việt nam về phía nam và tây nam. 

Năm 1859,  thành phố Sài gòn bị người Pháp chiếm đóng lần đầu tiên.  Cũng bắt đầu từ giai đọan thực dân, người Pháp đã xây dựng nhiều cơ sở, dinh thự theo cấu trúc của văn minh tây phương.  Vì vậy Sài gòn còn được gọi là “Hòn Ngọc Viễn Đông,” (the Pearl of the Far East) và “Tiểu Paris” (Little Paris).

Năm 1954, quân Pháp bị Việt Minh đánh bại ở trận Điện Biên Phủ và họ rút lui khỏi Việt Nam.  Từ trước đó (năm 1950), thay vì công nhận chính quyền CS, người Pháp ngầm ủng hộ Bảo Đại lập chính phủ và chọn Sài gòn là thủ đô.  Kể từ năm 1950 Sài gòn và vùng Chợ lớn (nơi có số rất đông người Hoa tập trung) được gộp chung lại thành một đơn vị hành chánh gọi là “Đô thành Sài gòn.”

Sau khi Việt Nam chính thức được chia làm 2: Bắc Việt (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) và Nam Việt (Việt Nam Cộng Hòa).  Sài gòn là thủ đô của miền nam Việt Nam dưới chính phủ Ngô Đình Diệm.

Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt năm 1975, thành phố Sài gòn đặt dưới sự kiểm sóat của CS Bắc Việt.

Năm 1976, sau khi thống nhất quốc gia Viêt Nam xong, CS đổi tên chính thể của nước Việt Nam là “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” và đổi tên thành phố Sài gòn thành Thành Phố HCM.  Thực ra, sau 30 tháng 4 năm 1975, thành phố Sài gòn (và Chợ lớn), tỉnh Gia định và 2 quận ở ngọai ô Sài gòn (thuộc 2 tỉnh khác nhau nằm sát Sài gòn) đã được gộp chung lại thành TP HCM.  TP HCM rộng 809 dặm vuông (hay là 2,095 cây số vuông) trải dài từ Củ chi (cách biên giới Việt Miên 20 Km) cho đến Cần giờ gần biển Nam Hải.  Khỏang cách từ điểm cực bắc (Phú Mỹ Hưng, quận Củ chi) cho đến điểm cực nam (Long Hoa, quận Cần giờ) là 120 cây số; và từ điểm cực đông (Long bình, quận 9) đến điểm cực tây (Bình chánh, Quận Bình chánh)  là 46 cây số.  Mặc dù TP HCM là tên gọi chính thức trên giấy tờ hành chánh, nhưng đại đa số người dân sống ở Sài gòn vẫn gọi thành phố qua cái tên quen thuộc là Sài gòn.  Chữ “Sài gòn” còn thấy trên bảng hiệu của các cửa tiệm thương mại, ngay cả tại Hà nội, thí dụ như “Saigon thời trang,” “Kiểu Sài gòn…”  bởi vì người Việt trong nước hiện nay nghĩ về chữ “Sài gòn” như là một cái gì tượng trưng cho “văn minh, thời thượng…”

Ngày hôm nay, trung tâm thành phố Sài gòn vẫn còn vẻ giữ tráng lệ với các đại lộ có những hàng cây xanh rợp bóng, thanh lịch, với nhiều dinh thự cơ sở có di tích lịch sử được xây dựng từ thời các đời vua Nguyễn, thời thực dân và thời VNCH như Đồn Cây mai (do danh tướng Nguyễn tri Phương xây dựng), nhà thờ Đức Bà và dinh Độc lập (tên mới là dinh Thống Nhất!)…

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.