Tuần qua, Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Đặc trách Đông Á Thái bình dương tới VN làm việc, thảo luận với Hà Nội về tham nhũng, đề tài của một cuộc hội thảo do Ngân hàng Thế giới cùng tổ chức với chính quyền VN.
Dưới đây là vấn đề tai họa của nạn tham nhũng, qua cuộc phỏng vấn sau đây với kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, do Thy Nga, đài RFA, thực hiện.
Hỏi: Thưa ông, nghiên cứu tình hình kinh tế trong nước, có lẽ ông cũng để ý đến việc Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới viếng thăm Việt Nam và cuộc hội thảo về tham nhũng do Ngân hàng Thế giới hợp tác tổ chức với Việt Nam"
-- Thưa vâng, và ai theo dõi tin tức hiển nhiên là cũng có vài phút giải trí khi báo của đảng loan tin Ngân hàng Thế giới đánh giá cao quyết tâm diệt trừ tham nhũng của Việt Nam ngay trước khi vụ tham nhũng khổng lồ của bà Lã Thị Kim Oanh được đem ra tòa. Thực ra, hôm 19 tháng trước, Hội đồng Điều hành Ngân hàng Thế giới đã có phiên họp duyệt xét sách lược viện trợ cho Việt Nam và có nhắc nhở đến một số vấn đề gần như muôn thuở của Hà Nội, như là trì hoãn cải tổ doanh nghiệp nhà nước nên có thể chậm đà hội nhập vào kinh tế thế giới, hoặc không giải quyết được việc sung dụng tài nguyên cho thỏa đáng làm hố sâu giàu nghèo bị mở rộng và đặc biệt là yêu cầu cấp thiết phải đẩy mạnh cải tổ hành chính. Những loại vấn đề trên đều có liên hệ đến nạn tham nhũng.
Hỏi: Thưa ông, từ khi nào Ngân hàng Thế giới mới bắt đầu để ý đến nạn tham nhũng"
-- Định chế tài chính này được thành lập từ sau Thế chiến II nhưng mãi đến gần đây, cụ thể là từ 1996, Ngân hàng Thế giới mới thực sự chú ý đến nạn tham nhũng. Trước đó, như đa số dư luận đã tưởng lầm, người ta cứ cho rằng tham nhũng là một loại hoạt liệu trong các xứ nghèo để làm trơn tru bộ máy hành chính và giúp cho việc kinh doanh tiến hành xuông xẻ hơn. Sự thật hoàn toàn khác, và năm 1997 Ngân hàng Thế giới bắt đầu có sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm giúp các nước giải trừ nạn tham nhũng.
Hỏi: Trên diễn đàn này, đặc biệt qua vụ khủng hoảng kinh tế Đông Á năm 1997, ông đề cập tới bao tai họa của tham nhũng, xin ông nhắc lại ở đây, trước hết tham nhũng là gì"
-- Tham nhũng là khi người ta dùng tiền tài hay quyền lực để thủ đắc tư lợi, một hiện tượng chỉ có khi ta tiếp cận với khu vực nhà nước. Người trong công quyền dùng quyền để kiếm ra tiền và người ở bên ngoài dùng tiền để vượt qua luật.
Hỏi: Và hậu quả của nó là cản trở chứ không phù trợ việc phát triển kinh tế phải không"
-- Hậu quả của tham nhũng có thể kể ra rất nhiều, nhưng nó chủ yếu phát sinh khi bộ máy nhà nước phình nở không giới hạn và thiếu sự kiểm soát hay ngăn ngừa của luật pháp, của công chúng, của dư luận và báo chí. Nếu không được ngăn chặn thì tham nhũng làm ung thối luôn hệ thống luật pháp, thậm chí chi phối cả luật lệ và chính sách theo lối các cụ mình gọi là “đồng bạc đâm xoạc tờ giấy”. Riêng nói về hậu quả thì tham nhũng làm ruỗng nát cơ chế nhà nước, gây bất công trong xã hội, cản trở công cuộc phát triển kinh tế và khiến quốc gia dễ bị khủng hoảng. Đó là trên đại thể, và là điều đáng chú ý trong các quốc gia mà lãnh đạo tự xưng là xã hội chủ nghĩa, trong khi lại gây ra bất công xã hội.
Hỏi: Vì sao ông lại nêu vấn đề bất công xã hội như một hậu quả đầu tiên"
-- Tham nhũng là hiện tượng có thể gặp trong mọi xã hội, kể cả các nước đã phát triển. Người ta không quên rằng tại Hoa Kỳ vào hạ bán thế kỷ 19, cách đây hơn 150 năm, trong thời gọi là “chủ nghĩa tư bản hoang dã” thì nạn tham nhũng và kinh doanh bất chính cũng đã hoành hành mạnh trước khi bị chặn đứng qua nhiều nỗ lực cải tổ luật lệ và chính trị. Nhưng, riêng tại các nước nghèo như trường hợp Việt Nam, thì giới bần cùng là thành phần cần đến các dịch vụ trợ giúp xã hội, như y tế, giáo dục hay cả tín dụng nữa, của bộ máy công quyền hầu sớm thoát khỏi sự cùng khốn đó. Khi bộ máy công quyền lại bị đục khoét bởi tham nhũng thì giới nghèo khốn là nạn nhân đầu tiên vì nó làm các dịch vụ xã hội trở nên khan hiếm và đắt giá hơn. Lý do thứ hai khiến tham nhũng gây bất công xã hội là vì nó cản trở công cuộc phát triển, hạ thấp đà tăng trưởng kinh tế, mà tăng trưởng kinh tế là điều kiện thiết yếu để nâng cao mức sống dân cư. Vì vậy, tham nhũng kéo dài trình trạng nghèo khốn của giới bần cùng, thành phần càng nghèo lại càng dễ là nạn nhân.
Hỏi: Ông có bi quan quá đáng không, vì Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng đến 7% một năm từ nhiều năm qua, một tốc độ rất cao so với các nước Đông Á"
-- Vâng, đây là niềm kiêu hãnh của giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay, mà là niềm kiêu hãnh giả tạo. Thứ nhất vì khởi điểm quá thấp của sự tăng trưởng đó, như ta đã nhiều lần đề cập tới trên diễn đàn này. Mình chỉ có 100 nhà máy thì nếu một năm có thêm 20 cơ sở là coi như đạt tốc độ tăng trưởng 20%, nhưng với các nước có cả triệu nhà máy thì một năm họ tăng có 2% vẫn là có thêm hai vạn nhà máy. Cụ thể là với Tổng sản lượng GDP này là gần 39 tỷ đô la một năm, theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, một năm Việt Nam có tăng trưởng thêm 7% thì cũng chỉ thêm hai tỷ bảy; chia cho 80 triệu dân thì suốt cả một năm mỗi người có thêm chưa tới 34 đô la. Đó là một sự tăng trưởng nghèo nàn, mỗi ngày thêm chưa đến 10 xu, không có gì đáng tự hào. Lý do thứ hai mà mình nên nhấn mạnh là hàng năm, người Việt ở ngoài gửi về tiền tươi là hai tỷ bảy, bằng với mức tăng trưởng của cả nước trong một năm cao nhất, chưa kể đến nửa triệu đồng bào về thăm nhà rồi mua sắm hay tiếp tế gia đình hoặc giúp thân nhân có chút vốn làm ăn. Ngân khoản do bà con ở ngoài bơm vào như vậy có thể thực tế là sáu bảy tỷ một năm. Vậy mà rốt cuộc, toàn nền kinh tế chỉ thêm gần ba tỷ. Số sai biệt giữa sáu bảy tỷ và ba tỷ này là ba bốn tỷ kia lọt đi đâu" Câu trả lời là lọt vào ổ tham nhũng, có khi chảy ra ngoài, từ nhiều năm nay rồi. Mà nạn bất công xã hội của chính quyền mệnh danh xã hội chủ nghĩa mới chỉ là lọai hậu quả trực tiếp của tham nhũng.
Hỏi: Nghĩa là ông còn nhìn thấy nhiều hậu quả gián tiếp khác của nạn tham nhũng"
-- Vâng, và rõ ràng nhất là trong lãnh vực chính sách và quản lý kinh tế. Tham nhũng làm giới chức công quyền có xu hướng đẩy mạnh đầu tư của khu vực nhà nước, làm hao hụt tài sản đầu tư của tư doanh. Trong đầu tư nhà nước, tham nhũng khuyến khích loại dự án xây dựng quy mô, vừa làm lãnh đạo tự hào vừa đem lại tiền hoa hồng lệ phí bất chánh cao hơn là các dự án xã hội. Thí dụ như ăn tiền trên riêng một dự án dầu khí hay xây cất thì gọn và nhiều hơn cả ngàn dự án lắt nhắt về giấy bút học sinh hay tiêm chủng người bệnh. Tham nhũng làm viên chức nhà nước ưa thích loại dự án thâm dụng tư bản, tức là máy móc thiết bị, hơn là loại dự án thâm dụng nhân công, vốn rất cần thiết cho một xã hội trẻ, có dân số lao động và nạn thất nghiệp cao như nước ta. Tham nhũng làm giảm nguồn thu thuế khóa vì gây thất thoát khi hành thu, mà lại thổi phồng công chi ngân sách vì có chi thì mới có chặn và có tiền bỏ túi. Do đó, tham nhũng làm lệch lạc hệ thống tài chính công, gây bất ổn trong chi thu ngân sách và điều đó tất nhiên đánh sụt mức phát triển quốc gia.
Hỏi: Trước những hậu quả đó, theo ông nghĩ thì có cách gì giải trừ được tham nhũng"
-- Người ta có bốn năm hướng phải cùng giải quyết một lúc. Trước hết, lãnh đạo và bộ máy chính quyền, như đảng, nhà nước và đảng viên cán bộ, phải chịu trách nhiệm trước quốc dân, nghĩa là chịu sự kiểm soát của dân chúng qua luật lệ. Cụ thể thì các đảng phái chính trị phải được tự do hoạt động và tự do cạnh tranh để có thể kiểm soát được nhau; việc tài trợ quỹ sinh hoạt của đảng phải được công khai hóa; và cán bộ nhà nước cấp trung bình trở lên phải kê khai tài sản. Thứ nhì nữa, hiến pháp phải định chế hóa việc giới hạn quyền lực của lãnh đạo và nhà nước, tức là phải có cơ chế Lập pháp và Tư pháp lẫn tòa án độc lập với đảng cầm quyền, phải có khả năng truy tố hay truất bãi nếu lãnh đạo làm điều sai trái. Thứ ba, quốc dân phải có tự do thông tin và ngôn luận, tự do báo chí, tự do theo dõi các cuộc tranh luận hay thảo luận về việc làm luật, và đại diện dân cử của người dân, như đại biểu Quốc hội chẳng hạn phải có quyền hạn thực tế đến từ dân. Thứ tư là thành phần kinh tế tư nhân phải bình đẳng với quốc doanh, hệ thống độc quyền của nhà nước phải được bãi bỏ hoặc giới hạn, sổ sách kinh doanh phải công khai minh bạch và doanh gia có quyền tự do lập hội để bảo vệ quyền lợi của mình đồng thời đối thoại với các cơ quan hữu trách của nhà nước một cách công khai để ngăn sự lạm dụng quyền lực.
Hỏi: Nếu vậy, dường như ta phải tiến hành cải tổ chính trị mới diệt được tham nhũng"
-- Thưa đúng như vậy, khi người dân thực sự làm chủ, từ làm chủ tài sản của mình tức là có quyền tư hữu cho đến việc làm chủ tương lai và quyết định kinh tế của mình, thì người ta có thể giới hạn được nạn tham nhũng. Ngược lại, tham nhũng thường hay xuất hiện trong các chế độ độc tài vì là hiện tượng cộng sinh với chế độ độc tài. Độc tài và tham nhũng thường nuôi dưỡng lẫn nhau. Và nhân đây cũng phải nói rằng muốn giải trừ tham nhũng thì còn phải cải tổ guồng máy công quyền và làm cho mọi việc đều phải trong sáng rõ ràng hơn, là điều tất nhiên đã được Ngân hàng Thế giới nhắc nhở Việt Nam trong những khuyến cáo thường đưa ra hàng năm.
Dưới đây là vấn đề tai họa của nạn tham nhũng, qua cuộc phỏng vấn sau đây với kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, do Thy Nga, đài RFA, thực hiện.
Hỏi: Thưa ông, nghiên cứu tình hình kinh tế trong nước, có lẽ ông cũng để ý đến việc Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới viếng thăm Việt Nam và cuộc hội thảo về tham nhũng do Ngân hàng Thế giới hợp tác tổ chức với Việt Nam"
-- Thưa vâng, và ai theo dõi tin tức hiển nhiên là cũng có vài phút giải trí khi báo của đảng loan tin Ngân hàng Thế giới đánh giá cao quyết tâm diệt trừ tham nhũng của Việt Nam ngay trước khi vụ tham nhũng khổng lồ của bà Lã Thị Kim Oanh được đem ra tòa. Thực ra, hôm 19 tháng trước, Hội đồng Điều hành Ngân hàng Thế giới đã có phiên họp duyệt xét sách lược viện trợ cho Việt Nam và có nhắc nhở đến một số vấn đề gần như muôn thuở của Hà Nội, như là trì hoãn cải tổ doanh nghiệp nhà nước nên có thể chậm đà hội nhập vào kinh tế thế giới, hoặc không giải quyết được việc sung dụng tài nguyên cho thỏa đáng làm hố sâu giàu nghèo bị mở rộng và đặc biệt là yêu cầu cấp thiết phải đẩy mạnh cải tổ hành chính. Những loại vấn đề trên đều có liên hệ đến nạn tham nhũng.
Hỏi: Thưa ông, từ khi nào Ngân hàng Thế giới mới bắt đầu để ý đến nạn tham nhũng"
-- Định chế tài chính này được thành lập từ sau Thế chiến II nhưng mãi đến gần đây, cụ thể là từ 1996, Ngân hàng Thế giới mới thực sự chú ý đến nạn tham nhũng. Trước đó, như đa số dư luận đã tưởng lầm, người ta cứ cho rằng tham nhũng là một loại hoạt liệu trong các xứ nghèo để làm trơn tru bộ máy hành chính và giúp cho việc kinh doanh tiến hành xuông xẻ hơn. Sự thật hoàn toàn khác, và năm 1997 Ngân hàng Thế giới bắt đầu có sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm giúp các nước giải trừ nạn tham nhũng.
Hỏi: Trên diễn đàn này, đặc biệt qua vụ khủng hoảng kinh tế Đông Á năm 1997, ông đề cập tới bao tai họa của tham nhũng, xin ông nhắc lại ở đây, trước hết tham nhũng là gì"
-- Tham nhũng là khi người ta dùng tiền tài hay quyền lực để thủ đắc tư lợi, một hiện tượng chỉ có khi ta tiếp cận với khu vực nhà nước. Người trong công quyền dùng quyền để kiếm ra tiền và người ở bên ngoài dùng tiền để vượt qua luật.
Hỏi: Và hậu quả của nó là cản trở chứ không phù trợ việc phát triển kinh tế phải không"
-- Hậu quả của tham nhũng có thể kể ra rất nhiều, nhưng nó chủ yếu phát sinh khi bộ máy nhà nước phình nở không giới hạn và thiếu sự kiểm soát hay ngăn ngừa của luật pháp, của công chúng, của dư luận và báo chí. Nếu không được ngăn chặn thì tham nhũng làm ung thối luôn hệ thống luật pháp, thậm chí chi phối cả luật lệ và chính sách theo lối các cụ mình gọi là “đồng bạc đâm xoạc tờ giấy”. Riêng nói về hậu quả thì tham nhũng làm ruỗng nát cơ chế nhà nước, gây bất công trong xã hội, cản trở công cuộc phát triển kinh tế và khiến quốc gia dễ bị khủng hoảng. Đó là trên đại thể, và là điều đáng chú ý trong các quốc gia mà lãnh đạo tự xưng là xã hội chủ nghĩa, trong khi lại gây ra bất công xã hội.
Hỏi: Vì sao ông lại nêu vấn đề bất công xã hội như một hậu quả đầu tiên"
-- Tham nhũng là hiện tượng có thể gặp trong mọi xã hội, kể cả các nước đã phát triển. Người ta không quên rằng tại Hoa Kỳ vào hạ bán thế kỷ 19, cách đây hơn 150 năm, trong thời gọi là “chủ nghĩa tư bản hoang dã” thì nạn tham nhũng và kinh doanh bất chính cũng đã hoành hành mạnh trước khi bị chặn đứng qua nhiều nỗ lực cải tổ luật lệ và chính trị. Nhưng, riêng tại các nước nghèo như trường hợp Việt Nam, thì giới bần cùng là thành phần cần đến các dịch vụ trợ giúp xã hội, như y tế, giáo dục hay cả tín dụng nữa, của bộ máy công quyền hầu sớm thoát khỏi sự cùng khốn đó. Khi bộ máy công quyền lại bị đục khoét bởi tham nhũng thì giới nghèo khốn là nạn nhân đầu tiên vì nó làm các dịch vụ xã hội trở nên khan hiếm và đắt giá hơn. Lý do thứ hai khiến tham nhũng gây bất công xã hội là vì nó cản trở công cuộc phát triển, hạ thấp đà tăng trưởng kinh tế, mà tăng trưởng kinh tế là điều kiện thiết yếu để nâng cao mức sống dân cư. Vì vậy, tham nhũng kéo dài trình trạng nghèo khốn của giới bần cùng, thành phần càng nghèo lại càng dễ là nạn nhân.
Hỏi: Ông có bi quan quá đáng không, vì Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng đến 7% một năm từ nhiều năm qua, một tốc độ rất cao so với các nước Đông Á"
-- Vâng, đây là niềm kiêu hãnh của giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay, mà là niềm kiêu hãnh giả tạo. Thứ nhất vì khởi điểm quá thấp của sự tăng trưởng đó, như ta đã nhiều lần đề cập tới trên diễn đàn này. Mình chỉ có 100 nhà máy thì nếu một năm có thêm 20 cơ sở là coi như đạt tốc độ tăng trưởng 20%, nhưng với các nước có cả triệu nhà máy thì một năm họ tăng có 2% vẫn là có thêm hai vạn nhà máy. Cụ thể là với Tổng sản lượng GDP này là gần 39 tỷ đô la một năm, theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, một năm Việt Nam có tăng trưởng thêm 7% thì cũng chỉ thêm hai tỷ bảy; chia cho 80 triệu dân thì suốt cả một năm mỗi người có thêm chưa tới 34 đô la. Đó là một sự tăng trưởng nghèo nàn, mỗi ngày thêm chưa đến 10 xu, không có gì đáng tự hào. Lý do thứ hai mà mình nên nhấn mạnh là hàng năm, người Việt ở ngoài gửi về tiền tươi là hai tỷ bảy, bằng với mức tăng trưởng của cả nước trong một năm cao nhất, chưa kể đến nửa triệu đồng bào về thăm nhà rồi mua sắm hay tiếp tế gia đình hoặc giúp thân nhân có chút vốn làm ăn. Ngân khoản do bà con ở ngoài bơm vào như vậy có thể thực tế là sáu bảy tỷ một năm. Vậy mà rốt cuộc, toàn nền kinh tế chỉ thêm gần ba tỷ. Số sai biệt giữa sáu bảy tỷ và ba tỷ này là ba bốn tỷ kia lọt đi đâu" Câu trả lời là lọt vào ổ tham nhũng, có khi chảy ra ngoài, từ nhiều năm nay rồi. Mà nạn bất công xã hội của chính quyền mệnh danh xã hội chủ nghĩa mới chỉ là lọai hậu quả trực tiếp của tham nhũng.
Hỏi: Nghĩa là ông còn nhìn thấy nhiều hậu quả gián tiếp khác của nạn tham nhũng"
-- Vâng, và rõ ràng nhất là trong lãnh vực chính sách và quản lý kinh tế. Tham nhũng làm giới chức công quyền có xu hướng đẩy mạnh đầu tư của khu vực nhà nước, làm hao hụt tài sản đầu tư của tư doanh. Trong đầu tư nhà nước, tham nhũng khuyến khích loại dự án xây dựng quy mô, vừa làm lãnh đạo tự hào vừa đem lại tiền hoa hồng lệ phí bất chánh cao hơn là các dự án xã hội. Thí dụ như ăn tiền trên riêng một dự án dầu khí hay xây cất thì gọn và nhiều hơn cả ngàn dự án lắt nhắt về giấy bút học sinh hay tiêm chủng người bệnh. Tham nhũng làm viên chức nhà nước ưa thích loại dự án thâm dụng tư bản, tức là máy móc thiết bị, hơn là loại dự án thâm dụng nhân công, vốn rất cần thiết cho một xã hội trẻ, có dân số lao động và nạn thất nghiệp cao như nước ta. Tham nhũng làm giảm nguồn thu thuế khóa vì gây thất thoát khi hành thu, mà lại thổi phồng công chi ngân sách vì có chi thì mới có chặn và có tiền bỏ túi. Do đó, tham nhũng làm lệch lạc hệ thống tài chính công, gây bất ổn trong chi thu ngân sách và điều đó tất nhiên đánh sụt mức phát triển quốc gia.
Hỏi: Trước những hậu quả đó, theo ông nghĩ thì có cách gì giải trừ được tham nhũng"
-- Người ta có bốn năm hướng phải cùng giải quyết một lúc. Trước hết, lãnh đạo và bộ máy chính quyền, như đảng, nhà nước và đảng viên cán bộ, phải chịu trách nhiệm trước quốc dân, nghĩa là chịu sự kiểm soát của dân chúng qua luật lệ. Cụ thể thì các đảng phái chính trị phải được tự do hoạt động và tự do cạnh tranh để có thể kiểm soát được nhau; việc tài trợ quỹ sinh hoạt của đảng phải được công khai hóa; và cán bộ nhà nước cấp trung bình trở lên phải kê khai tài sản. Thứ nhì nữa, hiến pháp phải định chế hóa việc giới hạn quyền lực của lãnh đạo và nhà nước, tức là phải có cơ chế Lập pháp và Tư pháp lẫn tòa án độc lập với đảng cầm quyền, phải có khả năng truy tố hay truất bãi nếu lãnh đạo làm điều sai trái. Thứ ba, quốc dân phải có tự do thông tin và ngôn luận, tự do báo chí, tự do theo dõi các cuộc tranh luận hay thảo luận về việc làm luật, và đại diện dân cử của người dân, như đại biểu Quốc hội chẳng hạn phải có quyền hạn thực tế đến từ dân. Thứ tư là thành phần kinh tế tư nhân phải bình đẳng với quốc doanh, hệ thống độc quyền của nhà nước phải được bãi bỏ hoặc giới hạn, sổ sách kinh doanh phải công khai minh bạch và doanh gia có quyền tự do lập hội để bảo vệ quyền lợi của mình đồng thời đối thoại với các cơ quan hữu trách của nhà nước một cách công khai để ngăn sự lạm dụng quyền lực.
Hỏi: Nếu vậy, dường như ta phải tiến hành cải tổ chính trị mới diệt được tham nhũng"
-- Thưa đúng như vậy, khi người dân thực sự làm chủ, từ làm chủ tài sản của mình tức là có quyền tư hữu cho đến việc làm chủ tương lai và quyết định kinh tế của mình, thì người ta có thể giới hạn được nạn tham nhũng. Ngược lại, tham nhũng thường hay xuất hiện trong các chế độ độc tài vì là hiện tượng cộng sinh với chế độ độc tài. Độc tài và tham nhũng thường nuôi dưỡng lẫn nhau. Và nhân đây cũng phải nói rằng muốn giải trừ tham nhũng thì còn phải cải tổ guồng máy công quyền và làm cho mọi việc đều phải trong sáng rõ ràng hơn, là điều tất nhiên đã được Ngân hàng Thế giới nhắc nhở Việt Nam trong những khuyến cáo thường đưa ra hàng năm.
Gửi ý kiến của bạn