Hồi ký: Tôi Tìm Tự Do
Tôi là Nguyễn Hữu Chí, sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, từng có hơn một năm phải đội nón cối, đi dép râu, theo đội quân Việt Cộng xâm lăng Miền Nam. Trong những năm trước đây, khi cuộc đấu tranh bảo vệ chính nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Úc còn minh bạch, lằn ranh quốc cộng còn rõ ràng, tôi hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu, thế lực của cộng sản. Nhưng gần đây, có những dấu hiệu rõ ràng chứng tỏ, những thế lực chìm nổi của cộng sản tại Úc đang tìm cách xóa bỏ lằn ranh quốc cộng, đồng thời thực hiện âm mưu làm suy yếu sức mạnh đấu tranh của người Việt hải ngoại. Trong hoàn cảnh đấu tranh ngày càng khó khăn đó, tôi thấy mình chỉ có thể đi tiếp con đường mình đã chọn khi được quý độc giả hiểu và tin tưởng. Vì vậy, tôi viết hồi ký này, kể lại một cách trung thực cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của tôi khi sống trong chế độ cộng sản, cũng như những nguy hiểm, may mắn khi tôi tìm tự do.... Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn trên nhiều phương diện, lại phải vừa duy trì tờ báo, vừa tham gia các sinh hoạt cộng đồng, vừa tìm cách "mưu sinh, thoát hiểm" giữa hàng chục "lằn tên đường đạn", nên hồi ký này có rất nhiều thiếu sót. Kính mong quý độc giả thông cảm bỏ qua, hoặc đóng góp nếu có thể.
*
(Tiếp theo...)
Ngồi trên xe lửa, trên đoạn đường từ Nam Định, qua Phủ Lý, đến Hà Nội, lòng tôi ngổn ngang trăm mối khi nhìn thấy những hình ảnh thân quen vùn vụt trôi qua cửa sổ. Bao kỷ niệm được đánh thức, bao nhân dáng thấp thoáng hiện về, để rồi tôi đau xót khi thấy quê hương, đất nước của tôi vẫn nghèo nàn, khốn khổ; thân nhân bằng hữu của tôi vẫn mãi mãi chìm ngập trong cuộc đời giật gấu vá vai, khốn khó về vật chất, đoạ đầy về tư cách, mỏi mòn về nhân phẩm. Bây giờ, cùng với chiến thắng của người CS sau 30-4-1975, biết bao hy vọng mỏng manh của người dân Miền Bắc sẽ bị dập tắt; bao tấm lòng thao thức hướng vô Miền Nam trong suốt bao nhiêu năm qua, nay sẽ phải nghẹn ngào nhắm mắt... Lúc đó, tôi không hề biết, trong suốt 31 năm sau 1975, tổ quốc của tôi, dân tộc của tôi sẽ phải chịu đựng muôn vàn nỗi trầm luân, khổ cực, hàng trăm ngàn người sẽ bị đầy ải trong trại cải tạo, hàng triệu người phải đi vùng kinh tế mới, hàng chục vạn người sẽ chết biển cả, trong rừng sâu, những cô gái Miền Nam hồn nhiên, chất phác như hoa rừng cỏ nội, sẽ phải bỏ cha mẹ, bỏ quê hương đi làm vợ những người đàn ông què cụt, không cùng ngôn ngữ ở khắp các quốc gia trong vùng Á châu, những em bé sẽ bị chế độ CS xuất cảng sang ngoại quốc làm điếm... Thời điểm tháng 5 năm 1975, tất cả những chuyện đau khổ đó chưa xảy ra, nhưng tôi, một thanh niên mới 24 tuổi đầu, với kinh nghiệm cha truyền con nối về chế độ CS, cộng với những gì tôi học hỏi được ở Miền Nam tự do, đã cho tôi biết, cùng với chiến thắng của CS và cái gọi là "hào quang thống nhất đất nước" bao trùm lên cả nước, tổ quốc của tôi, dân tộc của tôi đang bắt đầu bước vào một bóng đen dầy đặc của một đêm dài thời trung cổ... Và cùng với nỗi bất hạnh của tổ quốc, của dân tộc, cuộc đời của tôi cũng sẽ trải qua những nỗi đau đớn, nghẹn ngào, đầy máu và nước mắt...
Tôi biết, với quá khứ của một người bộ đội hồi chánh, một tên "phản bội tổ quốc", tôi sẽ không thể nào sống nổi trong chế độ cộng sản. Tôi biết hình phạt duy nhất dành cho tôi là nhà tù, trường bắn. Vì vậy, trong thâm tâm, ngay từ khi hiểu rõ chế độ CS, tôi đã có một quyết tâm, bằng bất cứ giá nào, tôi cũng phải thoát khỏi chế độ cộng sản vô nhân, cái chế độ chỉ biết dậy con người thù hận, căm ghét, đập phá. Để thoát khỏi cái chế độ bất nhân cộng sản, tôi sẵn sàng chấp nhận đánh đổi mạng sống của mình, vì thà tôi chết trên con đường chạy trốn cộng sản, cái chết của tôi còn có ý nghĩa hơn là tôi tiếp tục sống kiếp nô lệ trong chế độ cộng sản. Mang trong lòng quyết tâm ấy, cộng với những ảnh hưởng của tác phẩm Ruồi Trâu, ngay từ những năm cuối thập niên 1960, tôi đã tìm đến cảng Hải Phòng, tính chuyện chui xuống một chiếc tàu hàng nào đó, như Ruồi Trâu đã làm, để trốn khỏi Việt Nam. Thực ra, chuyến phiêu lưu đầy nguy hiểm của tôi đáng lẽ thành công, nếu không vì một bữa cơm với cá rô chiên tại nhà một người bạn tôi quen ở bến cảng... Cũng vì mang trong lòng quyết tâm ấy, nên trước ngày vô Nam, từ trong chỗ đóng quân ở sâu trong rừng thẳm của tỉnh Quảng Bình, tôi đã trốn đơn vị để về thăm Thầy, Mẹ tôi lần cuối, để rồi sau đó, ngay khi đặt chân đến lãnh thổ Miền Nam chưa đầy một tháng, từ động Ông Đô ở phía tây Quảng Trị, tôi đã nhằm thẳng vùng ánh sáng của thị xã Quảng Trị, cắt một đường thẳng băng, trở về hồi chánh với chính phủ VNCH... Và bây giờ, sau 1975, khi Miền Nam lọt vào tay cộng sản, tôi cũng chỉ còn có một con đường duy nhất: Phải trốn khỏi chế độ CS bằng bất cứ giá nào, cho dù tôi có chết trên đường trốn chạy. Nhưng trước khi vĩnh biệt quê hương, tôi muốn một lần cuối gặp lại Thầy, Mẹ; lần cuối nhìn lại quê hương cùng những người thân yêu của tôi. Đó là lý do khiến tôi trở lại Miền Bắc trong chuyến đi vô cùng nguy hiểm này.