* Đại tướng Cao Văn Viên nêu ra 5 sự kiện quyết định đến cuộc diện Việt Nam
1- VNCH phải chấp nhận một hiệp định mà trong đó quá nhiều điểm bất lợi cho sự sống còn của mình. Hiệp định Ba Lê đã làm cho sự tương quan lực lượng nghiêng hẳn về phía Bắc Việt và để cho Bắc Việt toàn quyền tung ra cuộc tấn công 1975.
2- Lời hứa của Tổng thống Hoa Kỳ (TT Nixon) sẽ phản ứng mạnh mẽ mà Việt Nam Cộng Hòa xem như là một sự cam kết mang tính cách giữa hai quốc gia lại không được chính quyền kế nhiệm (TT Ford) tôn trọng, thậm chí ngay cả vào lúc Cộng sản vi phạm trắng trợn.
3- Việc quân viện của Hoa Kỳ bị cắt giảm một cách bất ngờ và lớn lao đã làm kiệt quệ khả năng và tinh thần chiến đấu của quân và dân Việt Nam Cộng Hòa.
4- Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đưa ra quyết định quá chậm nên không còn cơ may nào để thực hiện thành công mặc dầu ông đưa ra như vậy là cần thiết. Việc rút quân khỏi Vùng 2 (quân khu 2) quá vội vã và hỗn độn, kéo theo sự sụp đổ của Vùng 1 và Vùng 2 quá nhanh (toàn miền Trung và Cao nguyên).
5- Các nhà lãnh đạo VNCH không nhận ra được chính sách Hoa Kỳ đã thay đổi sang hòa hoãn và tạo thuận lợi cho Cộng sản dù cho phải trả giá cho sự thất hứa với một đồng minh là giúp đồng minh đó giữ vững nền độc lập của mình. Vì vậy các nhà lãnh đạo này không thể hành động phù hợp với thực tế của Hiệp định Ba Lê mà vẫn cứ tiếp tục đẩy số phận của VNCH vào thế phải tránh né và thúc thủ. Cuối cùng sau nhiều năm chiến tranh liên tiếp, VNCH phải lâm vào tình trạng phá sản về kinh tế và chính trị. Sự đoàn kết quốc gia không còn nữa; không ai có đủ uy tín để tập hợp người dân về với chính nghĩa quốc gia.
Cũng theo Đại tướng Cao Văn Viên, ngoài những nguyên nhân chính vừa nêu trên, dĩ nhiên còn vô số những lý do chằng chịt khác tác dụng vào tạo nên sự suy sụp này. Vào cuối thế chiến thứ hai, sự lãnh đạo của Hoa Kỳ đối với Thế giới Tự do không ai mà không nhìn nhận. Nhưng chừng như khi có cuộc chiến tại VN và nhất là tại khu vực Đông Nam Á nói chung, chính sách Hoa Kỳ đã thay đổi nhiều lần, mà thoạt đầu là chính sách phi chính sách. Rồi đến khi cuộc can thiệp để chống Cộng sản lên đến giai quyết liệt thì lại nhượng bộ và hòa hoãn. Sự thay đổi này làm ảnh hưởng một cách nặng nề đến chính sách viện trợ và cung cách tiến hành chiến tranh tại phần đất này của thế giới.
Đại tướng Cao Văn Viên cũng nhắc lại một số sự kiện như sau: Tổng thống Franklin D.Roosevelt không bao giờ có quyết định là có nên giúp cho Pháp trở lại tái lập chế độ thuộc địa tại Đông Dương hay không. Chính quyền Truman thì có một phản ứng rõ ràng về trước cuộc xung đột giữa Việt Minh và Pháp trong khoảng 1945-1946. Chính quyền Mỹ từ khước việc Pháp yêu cầu phi cơ và tàu chiến Hoa Kỳ giúp chuyên chở quân lính Pháp đến Đông Dương và đồng thời cũng từ khước việc Pháp yêu cầu trang bị vũ khí cho quân đội Pháp đánh nhau với Việt Minh. Đồng thời chính quyền Truman cũng từ khước lời kêu gọi của Hồ Chí Minh. Tháng 8 và tháng 9 năm 1945, trong khi lực lượng Việt Minh đang kiểm soát Hà Nội, Hồ Chí Minh, qua trung gian của Văn phòng Cơ quan Chiến lược, gửi yêu cầu lên Tổng thống Truman xin cho Việt Nam được hưởng quy chế "như của Phi Luật Tân để được bảo hộ trong thời gian giành độc lập." Từ tháng 10/1945 cho đến tháng Hai năm 1946, Hồ Chí Minh viết cho Tổng thống Truman ít nhất 8 lá thư, chính thức kêu gọi Hoa Kỳ và LHQ can thiệp để ngăn chận chính sách thuộc địa của Pháp. Không có bằng chứng nào cho thấy các lá thư này được trả lời. Chính sách của Hoa Kỳ đối với VN bắt đầu ló dạng từ khi Mao Trạch Đông bắt đầu nắm vận mệnh Trung Hoa vào cuối năm 1949. Mục đích của Hoa Kỳ là chận đứng sự bành trướng của Cộng sản tại châu Á.
* Cuộc chiến tự vệ của VNCH
Đề cập đến cuộc chiến đấu tự vệ của VNCH, Đai tướng Cao Văn Viên nhận xét rằng: Trong cuộc chiến vừa qua, về phía Việt Nam Cộng Hòa, việc tiến hành chiến tranh chỉ mang tính cách tự vệ. Mục tiêu của chính phủ là ngăn chận sự bành trướng Cộng sản trong lãnh thổ quốc gia. Chỉ có hai lần quân đội vượt biên giới và đánh vào các căn cứ địch tại đất Lào và đất Cam Bốt, nhưng đó chỉ là hành động tự vệ chứ không hề được vạch ra thành chiến lược lâu dài. Nhiệm vụ đầu tiên của Quân lực VNCH là luôn luôn tìm cách bình định được lãnh thổ quốc gia. Do đó luôn có hai phương cách tiến hành song song: bình định các vùng đông dân cư và truy lùng diệt địch tại những khu vực hẻo lánh, dân cư thưa thớt. Suốt trong cuộc chiến, chiến lược tự vệ này khiến cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa bị lâm vào tình trạng bị động, trong khi địch lúc nào cũng ở thế chủ động; vừa về chiến thuật lẫn lợi thế của vũ khí.
Trình bày về sự giai đoạn cuối cuộc chiến, Đại tướng Cao Văn Viên ghi nhận và phân tích như sau.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, nhiều người mang sắc phục thường hay hỏi rằng tại sao quân đội có số lượng đông đảo hơn địch mà không đánh bại địch " Lý do căn bản là vì chiến tranh du kích có quy luật riêng của nó. Địch không lộ nguyên hình và không có căn cứ đồn trú để phải bảo vệ. Địch sống chen lẫn với dân chúng ngay trong lãnh thổ của VNCH hay trong những mật khu. Khi nào địch có số lượng vượt trội hơn quân đội chính phủ thì lúc đó địch mới xuất đầu lộ diện, nhưng nếu yếu thế thì lại trốn tránh không dám chạm trán. Sau khi giao chiến xong, địch phân tán mỏng, tái tổ chức, tái huấn luyện lại tại một nơi kín đáo nào đó.
Thật là dễ cho quân đội đánh du kích tại Hy Lạp, tại Mã Lai, tại Phi Luật Tân. Những nước này gồm toàn đảo hay bán đảo, nên xâm nhập người và trang bị từ ngoài vào trở ngại rất nhiều. Riêng tại Việt Nam thì có chung một biên giới với Lào và Cao Miên dài hàng ngàn dặm từ Bắc xuống Nam. Đường biên giới này nối liền liên tục, không bị đứt quảng chỗ nào nhưng lại đầy rừng rậm và núi non, rất thuận tiện cho địch lập căn cứ để từ đó Cộng sản Bắc Việt tiếp tế cho Cộng quân miền Nam từ quân chính quy miền Bắc cho đến đồ tiếp tế. Ngược lại VNCH phải sử dụng hết số quân trong tay để bảo vệ và giữ vững những căn cứ quân sự, những cơ quan dân sự. Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho dân chúng trong các làng mạc, thôn xóm. Thêm vào đó, quân đội cần người để tiến hành các cuộc hành quân truy tìm và diệt địch hoặc phản ứng chống trả khi bị tấn công. Các quân sự gia chuyên về chiến tranh du kích thường ước tính rằng muốn đạt được chiến thắng thì phải có số lượng 10 chống 1. Nếu tỷ lệ này rút xuống còn 5/1 thì cuộc chiến sẽ kéo dài triền miên và bất phân thắng bại. Còn nếu chỉ có hai, ba chống một thì không thể nào thắng được.
Vào thời điểm sức mạnh tấn công của Quân lực VNCH và đồng minh là 1.5 triệu người để đánh với lực lượng địch lúc bấy giờ là 320 ngàn người, tỷ lệ lúc đó là 4.7/1. Nhưng lúc ấy lực lượng Đồng Minh và VN được yểm trợ của Không quân từ các căn cứ trên đất liền hay trên các hàng không mẫu hạm. Hơn nữa hỏa lực cơ hữu của các Sư đoàn BB Mỹ cũng yểm trợ rất hữu hiệu. Đại tướng Cao Văn Viên giải thích thêm: Chiến cuộc Việt Nam như vậy thì không thể gọi như nhiều người vẫn gọi sai là "cuộc nội chiến" được. Vào giai đoạn gần kết thúc cuộc chiến hoàn toàn theo quy ước bằng trận địa chiến dữ dội với sự đủ loại vũ khí tối tân, tiếp phẩm từ phía khối Cộng sản. Đó là cuộc chiến tranh phác họa, trù tính, thực hiện và chỉ huy bởi Cộng sản Bắc Việt núp dưới chiêu bài giải phóng miền Nam và chính phủ lâm thời miền Nam VN.