Khi tôi viết về lá bùa “chuyện nội bộ” của ASEAN đã hết linh, quả thật tôi đã muốn đặt một tiên đề để nhìn vào tình hình Việt Nam mà điểm nổi bật nhất trong tuần qua là việc Hoa Kỳ và Việt Nam đã đạt được một thỏa ước về bản hiệp định Mậu dịch. Tôi đã đọc vài bài trên báo Việt cũng như báo Mỹ về phản ứng của cộng đồng người Việt ở Nam Bắc California nên cũng có vài suy nghĩ về chuyện này.
Một bài báo Mỹ xuất phát từ Little Saigon viết tại nơi đây có đông người Việt Nam tị nạn Cộng sản định cư, phản ứng xem ra “không rõ rệt” để rồi thuật lại những lời nói của một số người được hỏi cho thấy có người chống, có người nói không thích nhưng là công dân Mỹ nên phải theo luật pháp của Mỹ, có người nói việc bình thường hóa mậu dịch sẽ có lợi cho tất cả mọi người. Bài báo kết luận phần đông coi đây là chuyện không thể nào tránh được. Cần phải chờ một thời gian nữa mới hiểu được tác dụng thực của tình trạng bình thường hóa quan hệ mậu dịch giữa hai nước.
Cũng có một bài bình luận nhận định theo xu hướng trên để nói hãy chờ xem. Tôi thấy những nhận xét như vậy trên tổng quát là hợp lý, nhưng tôi cũng có một vài điều muốn nêu ra ở đây. Lập trường của cộng đồng người Việt ở hải ngoại có một căn bản rất rõ rệt, xuất phát từ tâm tư chống lại một chế độ độc tài đảng trị, nếu Hiệp ước Mậu dịch Mỹ-Việt chỉ làm lợi cho chế độ đó thì họ chống.
Phản ứng của một cá nhân thường xuất phát từ tình cảm và lý trí. Tình cảm, xúc cảm, cảm quan là do cái tâm vì một niềm tin thành hình qua kinh nghiệm của quá khứ. Cái tâm là cần nhưng nếu nó đi quá trớn sẽ trở thành đam mê vô lý thiếu suy nghĩ. Bởi vậy có tâm là tốt nhưng nó cần phải kèm theo lý trí để chế ngự những phản ứng bồng bột nông nổi chỉ có hại chớ không có lợi. Nhưng lý trí thiếu cái tâm soi sáng thì chỉ đi đến những hành động vụ lợi cá nhân vị kỷ, có khi quên cả đạo nghĩa bình thường của con người. Theo tôi nghĩ những người phân tích thời cuộc một cách vô tư cần phải quân bình cho đúng cái tâm và cái trí, và cũng xin thú thật cái nghệ thuật quân bình này cũng không phải là chuyện dễ.
Hiệp ước Mậu dịch có làm lợi cho chế độ Hà Nội không" Sự thỏa hiệp được coi là “trên nguyên tắc”, nhưng cũng có những chi tiết cụ thể nằm trên một văn bản khá dài. Vậy những người chống Cộng có tuyệt vọng thở than “tư bản Mỹ cấu kết với Cộng sản Việt” không" Trước khi nhìn được toàn bộ bản văn thỏa hiệp, trước khi nó được soạn thảo thành một văn bản hiệp ước để ký kết, mọi sự nhận định chỉ là phỏng đoán. Nhưng tôi nghĩ cũng có một vài sự kiện cụ thể để suy luận.
Nếu gọi là “cấu kết” tại sao hai bên phải mất đến 3 năm trời thương thuyết dây dưa" Hà Nội rất cần bản thương ước này, nên lúc nào cũng mong càng ký sớm càng tốt. Còn mấy ông kinh doanh Mỹ cũng nôn nóng chẳng kém, muốn có ngay thương ước để nhẩy vào thị trường Việt Nam. Vậy tại sao phải điều đình trầy vẩy mãi đến bây giờ mới xong"
Trước hết hãy nói đến một nguyên tắc căn bản là “chữ lợi”, đôi bên cùng có lợi, chỉ cần thu xếp làm sao cho cái lợi đó đồng đều là được. Nhưng vấn đề không giản dị như vậy, vì cái lợi của phía kinh doanh Mỹ, dù cho gọi là được một nửa, cái lợi đó lại va chạm vào những điều úy kỵ nhất của chế độ cộng sản Hà Nội. Chẳng hạn như các nhà kinh doanh, các nhà đầu tư Mỹ đã đòi hỏi và được hưởng những đặc quyền đặc lợi của những công ty nội địa Việt Nam, tức là những ưu đãi dành cho các công ty quốc doanh. Người ta không “xen vào chuyện nội bộ” mà đòi hỏi Việt Nam phải thanh toán các công ty nhà nước, nhưng khi Hà Nội phải chấp nhận cho các công ty Mỹ (và ngoại quốc) được có một sân chơi đồng đều để cạnh tranh công bằng với các công ty quốc doanh, khi đó các công ty quốc doanh chỉ còn cách tự đào huyệt mà chôn.
Tôi đã đọc những đại cương chủ yếu của thương ước trên bản tin AP về giao thương hàng hóa, về dịch vụ ngân hàng, về việc mở cho đầu tư tiến vào những những lãnh vực cho dến nay bị đóng kín vì quyền lợi của nhà nước, về hàng rào quan thuế, về tác quyền trí tuệ, về sự cam kết của Hà Nội phải thi hành những luật lệ và thủ tục công khai minh bạch về giao thương xuất nhập cảng... và còn nhiều nữa. Tôi nghĩ những điều khoản này nếu được thi hành nghiêm chỉnh sẽ sói mòn chủ trương “quốc doanh chỉ đạo kinh tế quốc dân” và làm các tập đoàn tham nhũng hết đường làm ăn lớn. Thế nhưng lại có những điều khoản Hà Nội được quyền thi hành chậm rì kéo dài nhiều năm. Đó là những điều khoản gì chưa thấy nói rõ.
Dù sao cũng có một sự thật phải nhìn cho kỹ. Các nhà kinh doanh và đầu tư Mỹ muốn phá lệ ân sủng quốc doanh hay trừ những ổ tham nhũng không phải vì họ quan tâm đến chính trị mà vì quyền lợi làm ăn của họ. Chính quyền Mỹ kể cả Bạch Cung và Quốc hội tất nhiên cũng phải nghĩ đến quyền lợi của đất nước Mỹ, của toàn dân Mỹ, chớ không thể chỉ nghĩ đến quyền lợi của một sắc dân thiểu số nào.
Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta chỉ cần “chờ và xem”. Nói lên quan điểm của chúng ta là điều nên làm, dù nếu không làm thay đổi được tình thế, ít ra cũng tạo cơ hội để phía Mỹ dồn ép thêm từ nay cho đến lúc văn bản dược ký kết và Quốc hội Mỹ thông qua.
Một bài báo Mỹ xuất phát từ Little Saigon viết tại nơi đây có đông người Việt Nam tị nạn Cộng sản định cư, phản ứng xem ra “không rõ rệt” để rồi thuật lại những lời nói của một số người được hỏi cho thấy có người chống, có người nói không thích nhưng là công dân Mỹ nên phải theo luật pháp của Mỹ, có người nói việc bình thường hóa mậu dịch sẽ có lợi cho tất cả mọi người. Bài báo kết luận phần đông coi đây là chuyện không thể nào tránh được. Cần phải chờ một thời gian nữa mới hiểu được tác dụng thực của tình trạng bình thường hóa quan hệ mậu dịch giữa hai nước.
Cũng có một bài bình luận nhận định theo xu hướng trên để nói hãy chờ xem. Tôi thấy những nhận xét như vậy trên tổng quát là hợp lý, nhưng tôi cũng có một vài điều muốn nêu ra ở đây. Lập trường của cộng đồng người Việt ở hải ngoại có một căn bản rất rõ rệt, xuất phát từ tâm tư chống lại một chế độ độc tài đảng trị, nếu Hiệp ước Mậu dịch Mỹ-Việt chỉ làm lợi cho chế độ đó thì họ chống.
Phản ứng của một cá nhân thường xuất phát từ tình cảm và lý trí. Tình cảm, xúc cảm, cảm quan là do cái tâm vì một niềm tin thành hình qua kinh nghiệm của quá khứ. Cái tâm là cần nhưng nếu nó đi quá trớn sẽ trở thành đam mê vô lý thiếu suy nghĩ. Bởi vậy có tâm là tốt nhưng nó cần phải kèm theo lý trí để chế ngự những phản ứng bồng bột nông nổi chỉ có hại chớ không có lợi. Nhưng lý trí thiếu cái tâm soi sáng thì chỉ đi đến những hành động vụ lợi cá nhân vị kỷ, có khi quên cả đạo nghĩa bình thường của con người. Theo tôi nghĩ những người phân tích thời cuộc một cách vô tư cần phải quân bình cho đúng cái tâm và cái trí, và cũng xin thú thật cái nghệ thuật quân bình này cũng không phải là chuyện dễ.
Hiệp ước Mậu dịch có làm lợi cho chế độ Hà Nội không" Sự thỏa hiệp được coi là “trên nguyên tắc”, nhưng cũng có những chi tiết cụ thể nằm trên một văn bản khá dài. Vậy những người chống Cộng có tuyệt vọng thở than “tư bản Mỹ cấu kết với Cộng sản Việt” không" Trước khi nhìn được toàn bộ bản văn thỏa hiệp, trước khi nó được soạn thảo thành một văn bản hiệp ước để ký kết, mọi sự nhận định chỉ là phỏng đoán. Nhưng tôi nghĩ cũng có một vài sự kiện cụ thể để suy luận.
Nếu gọi là “cấu kết” tại sao hai bên phải mất đến 3 năm trời thương thuyết dây dưa" Hà Nội rất cần bản thương ước này, nên lúc nào cũng mong càng ký sớm càng tốt. Còn mấy ông kinh doanh Mỹ cũng nôn nóng chẳng kém, muốn có ngay thương ước để nhẩy vào thị trường Việt Nam. Vậy tại sao phải điều đình trầy vẩy mãi đến bây giờ mới xong"
Trước hết hãy nói đến một nguyên tắc căn bản là “chữ lợi”, đôi bên cùng có lợi, chỉ cần thu xếp làm sao cho cái lợi đó đồng đều là được. Nhưng vấn đề không giản dị như vậy, vì cái lợi của phía kinh doanh Mỹ, dù cho gọi là được một nửa, cái lợi đó lại va chạm vào những điều úy kỵ nhất của chế độ cộng sản Hà Nội. Chẳng hạn như các nhà kinh doanh, các nhà đầu tư Mỹ đã đòi hỏi và được hưởng những đặc quyền đặc lợi của những công ty nội địa Việt Nam, tức là những ưu đãi dành cho các công ty quốc doanh. Người ta không “xen vào chuyện nội bộ” mà đòi hỏi Việt Nam phải thanh toán các công ty nhà nước, nhưng khi Hà Nội phải chấp nhận cho các công ty Mỹ (và ngoại quốc) được có một sân chơi đồng đều để cạnh tranh công bằng với các công ty quốc doanh, khi đó các công ty quốc doanh chỉ còn cách tự đào huyệt mà chôn.
Tôi đã đọc những đại cương chủ yếu của thương ước trên bản tin AP về giao thương hàng hóa, về dịch vụ ngân hàng, về việc mở cho đầu tư tiến vào những những lãnh vực cho dến nay bị đóng kín vì quyền lợi của nhà nước, về hàng rào quan thuế, về tác quyền trí tuệ, về sự cam kết của Hà Nội phải thi hành những luật lệ và thủ tục công khai minh bạch về giao thương xuất nhập cảng... và còn nhiều nữa. Tôi nghĩ những điều khoản này nếu được thi hành nghiêm chỉnh sẽ sói mòn chủ trương “quốc doanh chỉ đạo kinh tế quốc dân” và làm các tập đoàn tham nhũng hết đường làm ăn lớn. Thế nhưng lại có những điều khoản Hà Nội được quyền thi hành chậm rì kéo dài nhiều năm. Đó là những điều khoản gì chưa thấy nói rõ.
Dù sao cũng có một sự thật phải nhìn cho kỹ. Các nhà kinh doanh và đầu tư Mỹ muốn phá lệ ân sủng quốc doanh hay trừ những ổ tham nhũng không phải vì họ quan tâm đến chính trị mà vì quyền lợi làm ăn của họ. Chính quyền Mỹ kể cả Bạch Cung và Quốc hội tất nhiên cũng phải nghĩ đến quyền lợi của đất nước Mỹ, của toàn dân Mỹ, chớ không thể chỉ nghĩ đến quyền lợi của một sắc dân thiểu số nào.
Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta chỉ cần “chờ và xem”. Nói lên quan điểm của chúng ta là điều nên làm, dù nếu không làm thay đổi được tình thế, ít ra cũng tạo cơ hội để phía Mỹ dồn ép thêm từ nay cho đến lúc văn bản dược ký kết và Quốc hội Mỹ thông qua.
Gửi ý kiến của bạn