Hôm nay,  

Ngắm Vài Chiếc Lá Trong Rừng Tư Tưởng Của Thầy Tuệ Sỹ

15/11/202400:00:00(Xem: 1298)
Hinh-cua-Hoa-Thuong-Thich-Tue-Sy
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ
 
Không biết vì sao tôi có cái máu thích tư tưởng triết lý từ hồi còn trẻ. Do vậy, tôi rất mê đọc sách triết, sách tư tưởng, và dĩ nhiên sách Phật. Cũng vì cái “nghiệp dĩ” ấy mà khi lần đầu tiên được theo Ôn Từ Quang (tức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Phúc Hộ) vào tùng chúng an cư tại Viện Hải Đức, Nha Trang, vào mùa hè năm 1976, tôi thường vào thư viện để kiếm sách đọc.

Một hôm, khi thấy cuốn “Hữu Thể và Thời Gian” (Sein und zeit - Being and time) của Martin Heidegger do Trần Công Tiến dịch và GS Lê Tôn Nghiêm giới thiệu trên kệ sách trong Thư Viện Hải Đức, tôi lấy mang qua phòng của Thầy Tuệ Sỹ, nằm sát cạnh Thư Viện, để xin Thầy cho mượn đọc. Thầy nhìn cuốn sách rồi hỏi:

“Có hiểu gì không mà lấy?”
“Bạch Thầy, chút chút.”

Tôi trả lời, với một chút “mắc cỡ” vì cảm thấy dường như Thầy đã nhìn thấu tim gan của mình. Thầy chỉ cười và bảo tôi lấy đi.

Thật tình mà nói, ở cái tuổi chưa tới hai mươi, đầu óc còn non nớt, tôi không đủ kiến thức và suy tư sâu sắc để có thể hiểu được hết những tư duy triết học cao thâm trong cuốn “Hữu Thể và Thời Gian” của triết gia hàng đầu của thế kỷ hai mươi Martin Heidegger. Nhưng cũng vì thích đọc sách triết nên khi đã thấy nó thì khó lòng bỏ qua.

Đó là lần đầu tiên tôi trực tiếp được hầu chuyện với Thầy, dù trước đó rất lâu tôi đã được nghe về Thầy và cũng đã đọc một số bài viết của Thầy trên Tạp Chí Tư Tưởng của Đại Học Vạn Hạnh.

Bốn năm sau, tôi lại có được phước duyên hy hữu trong đời để gặp lại Thầy và thọ nhận sự giáo dục của Thầy trong khóa đào tạo đặc biệt bốn năm (1980-1984) tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam, Sài Gòn.

Bên ngoài Thầy rất bình dị và lân mẫn với Tăng sinh trẻ của chúng tôi, nhưng khi vào lớp học thì Thầy rất nghiêm. Tuy nhiên, nhờ Thầy “nghiêm” như vậy nên anh em học Tăng bắt buộc phải học hành nghiêm túc và chăm chỉ, không thể “lơ tơ mơ” được. “Giáo bất nghiêm, sư chi đọa” là vậy đó, như người xưa đã nói.

Một phương cách giáo dục đặc biệt khác nữa là Thầy không dạy theo kiểu từ chương hay nhồi sọ như cách giáo dục truyền thống ở Việt Nam lúc bấy giờ, mà Thầy chủ yếu dạy cách đọc văn bản, cách dịch, cách tra cứu và cách đào sâu vào nội dung văn bản để học trò có thể tự phát huy khả năng tư duy độc lập và sáng tạo. Sau này qua Mỹ tôi mới nhận ra là cách giáo dục của Thầy phù hợp với cách giáo dục ở Hoa Kỳ, nghĩa là thầy giáo phải làm sao cho học trò phát triển khả năng tư duy và sáng tạo độc lập.  

Nói đến điều này, tôi nhớ một kỷ niệm khó quên với Thầy Tuệ Sỹ lúc còn học ở Quảng Hương Già Lam. Đó là một hôm trong kỳ thi mãn niên khóa của lớp học Luận Câu-xá, Thầy đi thẳng vào lớp và lấy phấn viết lên bảng: Nguyên nhân và hậu quả của nghiệp. Rồi Thầy xoay lại nói với lớp học:

“Đó là đề thi. Làm đi.”

Cả lớp nhìn nhau ngơ ngác! Ngay lúc đó có lẽ ai nấy đều có cùng một cảm nghĩ là phân vân không biết phải viết thế nào, dù cuối cùng với thời lượng giờ thi hai tiếng đồng hồ cũng qua và bài thi cũng được nạp lên cho Thầy.

Câu chuyện này nói lên được phương thức giáo dục đặc biệt của Thầy, rằng vị Thầy phải có đủ sức mạnh trí tuệ và từ bi để đẩy học trò của mình vào cái thế bắt buộc phải tự mình đứng lên và đi tới bằng chính tư duy và sáng tạo của mình, mà không thể cứ mãi nương tựa hay bám víu vào Thầy.

Hơn bốn thập niên qua, dù sống xa quê hương và xa Thầy, cái nghiệp dĩ thích đọc sách tư tưởng triết lý vẫn bám theo tôi, đặc biệt là các tác phẩm của Thầy, từ thi ca, triết lý tư tưởng cho đến Phật học. Càng đọc Thầy tôi càng thấy rằng tư tưởng của Thầy là một khu rừng già mênh mông bát ngát.

Đọc những bộ Kinh và Luận Thầy dịch và chú thích như 4 bộ A-hàm, Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, Câu-xá Luận, Thành Duy Thức Luận, hay những tác phẩm do Thầy viết như Toát Yếu Các Kinh A-hàm, Thắng Man Giảng Luận, Huyền Thoại Duy Ma Cật, Dẫn Vào Tâm Kinh Bát Nhã, Kinh Hoa Nghiêm: Lý Tưởng Bồ Tát và Phật, Triết Học Về Tánh Không, Mười Huyền Môn: Trật Tự Của Thế Giới Trong Tương Quan Vô Tận, Tổng Quan Về Nghiệp, Thiền Định Phật Giáo, tôi thật sự choáng ngợp và kính phục tận đáy lòng trí tuệ uyên bác của Thầy đối với Tam Tạng Thánh Điển Phật Giáo và các giáo nghĩa cao thâm vi diệu của các Bộ Phái và Đại Thừa.

Đọc những tác phẩm văn học của Thầy như Tô Đông Pha - Những Phương Trời Viễn Mộng, Ngục Trung Mỵ Ngữ, Giấc Mơ Trường Sơn, Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm, Thiên Lý Độc Hành, Piano Sonata 14, Dẫn Vào Thế Giới Văn Học Phật Giáo, tôi cảm phục Thầy có tâm hồn nghệ sĩ nhưng siêu thoát, có sự sáng tạo độc đáo của riêng Thầy. Còn nữa, trong thơ văn của Thầy luôn luôn hàm chứa một thứ triết lý thâm diệu nằm giữa những hàng chữ rất ư thi vị.

Mở đầu cuốn “Triết Học Về Tánh Không” được xuất bản trước năm 1975 tại Sài Gòn, Thầy đã nêu ra một tra vấn cốt lõi cho toàn bộ cuốn sách: “Tánh không luận là gì?” Và Thầy đã trích mấy câu bằng tiếng Đức trong tác phẩm “Aus der Erfahrung des Denkens” của triết gia Martin Heidegger, với lời dịch Việt đầy thơ mộng của Thầy: “Khi con bướm mùa hè dừng lại trên đóa hoa, khép lại đôi cánh, và đong đưa theo cơn gió của cỏ nội hoa ngàn...”

Cái thơ mộng trong mấy câu này không đơn giản chỉ là hình thái mỹ học của văn chương. Nó phô diễn một thực tại phi ngôn thuyết với hình ảnh kỳ diệu chỉ xảy ra ở một khoảnh khắc bất ngờ nào đó: cơn gió của đồng nội lay động đóa hoa với con bướm đang nằm yên để tận hưởng giây phút ngọt ngào nhất của nó.

Đó phải chăng là một cách đặc dị để một cách nào đó trả lời cho tra vấn “Tánh không luận là gì” mà không cần phải sử dụng đến ngôn ngữ, một thứ phương tiện rất dễ bị hiểu lầm bởi tâm thức phân biệt vọng chấp? Trong một chương khác của “Triết Học Về Tánh Không,” Thầy đã minh giải về vấn đề này:

“Tánh Không không phải là một định nghĩa về thực tại, mặc dù trong đó như có hàm ngụ ý nghĩa bản tánh của Thực tại là Không. Thực tại tuyệt đối không thể định nghĩa, mà điều cần thiết là phải nhận thấy rõ những uẩn khúc của ngôn ngữ và vai trò của nó.

Rồi Thầy giải thích thêm về “những uẩn khúc của ngôn ngữ”:

“Ngay chính trong trường hợp của thuyết tánh Không cũng thế, tánh Không có thể đã là nạn nhân của đà quá trớn này của ngôn ngữ. Bởi vì, khi nghe nhà Trung quán, đưa tất cả mọi hiện thực vào tánh Không để phê bình, ta có thể dễ dàng đi đến kết luận rằng bản chất hiện thực là Không. Nói khác đi, ta hiểu rằng hiện thực được qui định, hay đúng hơn là được định nghĩa, bằng tánh Không. Hiểu như thế, không những ta đã làm cho tư tưởng của mình trở nên nghèo đói, mà còn chận đứng luôn cả con đường tiến về Tuyệt đối, tức là cảnh giới tự chứng của Phật đà.”

“Triết Học Về Tánh Không” là tác phẩm của Thầy viết về giáo nghĩa Tánh Không của Ngài Long Thọ trên bình diện triết lý cao và sâu nhất mà tôi đã từng đọc trong kho tàng sách tiếng Việt của Phật Giáo Việt Nam thuộc thể loại này.

Gần đây, chính xác là vào năm 2021, tôi lại có thiện duyên đọc được cuốn “Tổng Quan Về Nghiệp” của Thầy viết và do Hội Đồng Hoằng Pháp ấn hành.

Đây cũng là tác phẩm chứa đựng công trình nghiên cứu công phu và đồ sộ nhất về giáo nghĩa Nghiệp bằng tiếng Việt. Có lẽ không phải chỉ riêng tôi mà những ai có dịp đọc tác phẩm “Tổng Quan Về Nghiệp” của Thầy đều có cảm nhận là đang bước vào một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ của kho tàng kiến thức phong phú và đa dạng của nhiều luồng tư tưởng Đông và Tây, nhiều học thuyết và triết thuyết cổ kim liên quan đến vấn đề Nghiệp. Trong đó Thầy đã bàn đến tư tưởng của Vệ Đà, Áo Nghĩa Thư, Vedanta-Bhagavad Gita, sáu phái triết học ngoại đạo thời Đức Phật, đến các lý thuyết vật lý, cơ học lượng tử, tâm phân học và khoa học não, với những chú thích và tham khảo công phu các tài liệu. Thầy cũng trình bày một cách chi tiết các giáo nghĩa về Nghiệp trong Phật Giáo, A-hàm, Nikaya, các Bộ Phái, bao gồm những luận thuyết của A-tỳ-đạt-ma. Thầy còn dịch cả bộ Đại Thừa Thành Nghiệp Luận của Ngài Thế Thân để làm tài liệu cho độc giả tham khảo và nghiên cứu.

Vấn đề mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây là tác phẩm “Tổng Quan Về Nghiệp” cho chúng ta thấy tầm vóc tư tưởng kỳ vĩ của Thầy, không phải chỉ trong lãnh vực Phật học mà còn cả trong lãnh vực tư tưởng triết lý và tôn giáo trên thế giới. Điều này được thấy rõ trong “Tổng Quan Về Nghiệp,” Thầy đã kết hợp các kiến thức của Đông và Tây, từ khoa học đến Phật học để giải đáp thỏa đáng câu hỏi quan trọng nhất liên quan đến Nghiệp: Nếu tất cả các pháp là vô ngã như Đức Phật dạy thì ai tạo nghiệp nhân, cái gì duy trì nghiệp từ nhân đến quả, và ai thọ quả báo của nghiệp? Câu trả lời của Thầy trong “Tổng Quan Về Nghiệp” làm cho tôi không những vô cùng thích thú mà còn mãn nguyện vì đây cũng là vấn đề tư duy trăn trở của tôi. Thầy viết:

“Nghiệp được tích lũy gọi là tâm. Tồn tại của nó y trên sắc của thân đời này. Khi sắc này rã, nó lập tức xuất hiện nơi sắc khác thích hợp làm sở y để tồn tại. Cũng như hai hóa chất khi kết hợp với nhau thì biến thành chất thứ ba; cũng vậy, nghiệp quá khứ tức tâm tích lũy khi kết hợp với sắc hiện tại, ta nói là gene, cả hai sắc và tâm cùng biến đổi thành một sự sống mới. Trong đời sống này, nơi nào hội đủ điều kiện, nơi đó thức xuất hiện với hình thái thích hợp: từ thức con mắt cho đến ý thức. Như vậy, không hề có sự tồn tại của thân, gồm cả não, như là khối vật chất đơn thuần. Cũng không tồn tại tâm hay thức như là thực thể riêng biệt ngoài thân. Cho nên không có vấn đề nhất nguyên hay nhị nguyên tâm-vật ở đây.

“Ý thức có khi xuất hiện có khi không, nhưng thức thể như là nghiệp tích lũy thành tâm tích tập thường trực có mặt trong sự kết hợp với sắc thành nhất thể. Tâm thức như vậy không phải là tự ngã. Trong tồn tại cũng như trong các hoạt động của nó không tồn tại một thực thể khả dĩ nói là tự ngã hay linh hồn. Đây có thể là cách lý giải lời Phật nói: Có tác nghiệp và quả dị thục của nghiệp nhưng không có tác giả và thọ giả.”

Tư tưởng triết lý của Thầy không phải chỉ có trong những tác phẩm triết học như “Triết Học Về Tánh Không,” mà còn bàng bạc trong thơ của Thầy nữa. Đó chính là sự hấp dẫn làm cho tôi không thể nào cưỡng nổi. Ngay từ những năm 1980 tại Sài Gòn, các Tăng sĩ trẻ của chúng tôi thường chia sẻ với nhau những bài thơ của Thầy mỗi khi tìm thấy đâu đó. Cho đến bây giờ cũng thế, tôi vẫn say mê đọc thơ của Thầy. Thử hỏi những câu thơ dưới đây trong tập thơ “Thiên Lý Độc Hành” của Thầy làm sao mà không lôi cuốn được người đọc như tôi:  

“Bên đèo khuất miễu cô hồn
Lưng trời ảo ảnh chập chờn hoa đăng
Cây già bóng tối bò lan
Ta ôm cỏ dại mơ màng chiêm bao”

Còn có hình ảnh cô độc và thơ mộng nào hơn để diễn tả một lữ thứ độc hành trong đêm tối vào nghỉ trọ trong cái miễu cô hồn cô quạnh ở bên đèo, và nằm co ro trên đám cỏ dại trong rừng già để đánh giấc qua đêm! Bài thơ chuyên chở triết lý dung thông vô ngại giữa mộng và thực, giữa xưa và nay, giữa người và vũ trụ, giữa tâm và cảnh.

Cái độc đáo trong thơ của Thầy là ở chỗ đó, rằng giữa những hàng chữ có cửa “không cửa,” (vô môn quan) để bước vào thế giới ký bí của nguyên ngôn. Rất tiếc, thị lực tôi rất kém nên mới chỉ thấy lờ mờ mà chưa thực sự thấy cửa ở đâu để vào, nên dù thích đọc thơ Thầy mà dường như cả đời vẫn còn chạy lòng vòng ở ngoài cửa!  

Khả năng kiến thức sơ sài của tôi không thể nào hiểu và nói hết những chỗ cao sâu uyên áo trong tư tưởng triết lý của Thầy. Vì thế, những gì được viết ra ở đây chỉ là một vài chiếc lá nhặt được từ khu rừng già tư tưởng triết lý thâm viễn của Thầy.

Lời cuối, con xin đê đầu đảnh lễ tri ân công ơn giáo dục của Thầy.
 
Học trò của Thầy,
Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nói như thế là hơi cường điệu, nhằm nêu lên điểm bi hài. Không phải chạy ra khỏi xứ Phật, nhưng là chạy trốn khỏi bạo lực của chính phủ quân phiệt Miến Điện, khi sắc dân thiểu số Rohingya năm 2017 bị tấn công, đốt làng, xua ra khỏi biên giới vì chính phủ Miến Điện gọi họ là người Hồi giáo Bangladesh. Cũng không xa tới ngàn dặm, chỉ 600 dặm là Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc dựng lều trại cho tạm cư hàng trăm ngàn người Rohingya chạy vào Bangladesh. Câu chuyện tỵ nạn này vẫn còn kéo dài cho tới năm nay, 2024. Mới mấy tuần trước, trong tháng 10/2024, hàng trăm người Rohingya đã đi thuyền vượt biển tới phía Bắc Indonesia, hy vọng tới Malaysia. Trong đó, nhiều người đã thoát nạn diệt chủng ở Miến Điện và thoát điều kiện sống gian nan trong các trại tỵ nạn ở Bangladesh. Nhiều người lên ghe còn có ý muốn đoàn tụ với gia đình đã định cư ở Malaysia, Trong những người Rohingya chạy thoát hồi năm 2017, có một chàng trai sau này trở thành một nhà thơ nổi tiếng: Mayyu Ali.
Lần này không có hy vọng nào cho ông nữa, đó là cú đột quỵ lần thứ ba. Đêm này qua đêm khác, tôi đi ngang qua ngôi nhà (lúc đó là ngày nghỉ) nhìn vào ô cửa sổ sáng đèn, và đêm này qua đêm khác, tôi thấy nó sáng cùng một cách, mờ nhạt, rầu rầu...
Tôi bước lên chuyến xe buýt, đúng với tuyến đường Han Kang đã chỉ cho In-hye, chị Yeong-hye đi. Núi Chuk-sung hôm nay không ẩm ướt. Những gốc cây to không mang vẻ “run rẩy trong mưa.” Ngược lại, nó trầm mặc, bất động, vì hôm nay trời không mưa gió. Bệnh viện nơi Yeong-hye trú ngụ hiện ra giữa những con núi. Ngôi nhà trắng toát, nhỏ bé lọt thỏm giữa thiên nhiên. Thần núi, thần rừng bao quanh, sẵn sàng che chở những linh hồn đi lạc. Nơi này, Yeong-hye và nhiều người khác nữa, tách biệt khỏi thế giới bên ngoài. Họ sống đúng với bản năng cây cỏ, hào phóng cho mầm sống vươn ra từ bất cứ nơi nào trên cơ thể mình. Nơi này, không ai cần hiểu vì sao “đứa trẻ bé như thế… lúc mới sinh ra ai cũng thế này à?”
“Quê người trên đỉnh Trường sơn Cho ta gởi một nỗi hờn thiên thu.” Lần đầu tiên tôi cảm nhận Tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn ở một góc nhìn mới. Lòng tôi như đứa trẻ thơ được trở về trong vòng tay mẹ hiền sau bao năm lưu lạc. Trường Sơn trước mắt tôi thật thơ mộng, u trầm và hùng vĩ. Núi tiếp núi. Từng đàn cò trắng lượn bay giữa những cánh đồng lúa xanh trải dài bất tận, ngút ngàn. Dường như mây trời và khói núi quyện vào nhau để xoá nhoà đi ranh giới giữa mộng và thực. Theo dấu chân Người, tôi tìm về Trường Sơn. Để nhìn thẳng vào chân diện mục của Trường Sơn và cũng để “gởi một nỗi hờn thiên thu”.
Câu thơ “Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” của thi hào Nguyễn Du, nhiều người từng nghe qua, nhưng có thể không rõ xuất xứ ở đâu. Đó là hai câu kết trong bài thơ thất ngôn bát cú “Độc Tiểu Thanh Ký” (Đọc Bút Ký Tiểu Thanh), trong “Thanh Hiên Thi Tập”...
Lần đầu tiên xảy ra vào mùa đông sau khi cô tròn mười sáu tuổi. Ngôn ngữ đã châm chích và giam cầm cô như quần áo làm từ hàng ngàn cây kim đột nhiên biến mất. Những từ ngữ vẫn đến được tai, nhưng giờ đây một lớp không khí dày đặc đệm khoảng không giữa ốc tai và não. Bị bao bọc trong im lặng mù sương, những ký ức về chiếc lưỡi và đôi môi đã từng sử dụng phát âm, về bàn tay đã nắm chặt cây bút chì, trở nên xa vời. Cô không còn suy nghĩ bằng ngôn ngữ nữa. Di chuyển, không cần ngôn ngữ và hiểu, không cần ngôn ngữ, như cô đã từng làm trước khi học nói - không, trước khi có được sự sống. Im lặng, hấp thụ dòng chảy thời gian như những quả bóng bông, bao bọc cơ thể cả bên ngoài lẫn bên trong.
Băng hình này thực hiện để cúng dường Tam Bảo. Nội dung dựa trên nhiều bản dịch khác nhau của Thầy Thích Minh Châu, Daw Mya Tin, Weragoda Sarada Thero, và nhiều Thầy trên Sutta Central và Access to Insight.
Giải Nobel Văn học năm 2024 đã được trao cho Han Kang, một tác giả người Nam Hàn, vì "văn xuôi thơ mãnh liệt đối mặt với những chấn thương lịch sử và phơi bày sự mong manh của cuộc sống con người". Han Kang sinh ra tại Gwangju, Nam Hàn, cô chuyển đến Seoul khi mới mười tuổi. Cô học văn học tại Đại học Yonsei. Các tác phẩm của cô đã giành được Giải thưởng Văn học Yi Sang, Giải thưởng Nghệ sĩ trẻ ngày nay và Giải thưởng Tiểu thuyết Văn học Nam Hàn. The Vegetarian (Người Ăn Chay), tiểu thuyết đầu tiên của cô được dịch sang tiếng Anh, Portobello Books xuất bản năm 2015 và giành Giải thưởng Man Booker Quốc tế năm 2016. Cô sống tại Seoul. “Trái Cây Của Vợ Tôi”, Han Kang viết câu chuyện này vào năm 1997, cũng là tiền thân trực tiếp cho cuốn tiểu thuyết The Vegetarian năm 2007 – trong cả hai tác phẩm, một cặp vợ chồng ở độ tuổi đầu ba mươi thấy cuộc sống vốn bình lặng bị xáo trộn khi người vợ biến dạng thân thể.
Nhà văn nữ Han Kang người Nam Hàn đã đoạt giải Nobel Văn học 2024 nhờ “phong cách văn chương không chỉ đậm chất thơ mà còn sâu sắc, ý nghĩa, phản ánh những chấn thương lịch sử và thân phận mong manh của cuộc sống con người.” Ở tuổi 53, bà trở thành nữ nhà văn Nam Hàn đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học, đồng thời là nữ nhà văn thứ 18 trong tổng số 121 nhà văn đoạt giải thưởng danh giá này cho đến nay. Bên cạnh sự nghiệp văn chương, Han Kang còn là một nhạc sĩ và có niềm đam mê với nghệ thuật thị giác (visual art).
Ba cuốn sách: Tiểu thuyết “Đường Về Thủy Phủ”; Tập truyện “Người Đàn Bà Khác”, và Tạp chí Ngôn Ngữ ấn bản đặc biệt Trịnh Y Thư, đã được ra mắt lần đầu tiên tại Coffee Factory, Westminster, Nam California vào lúc 4 giờ chiều Thứ Bảy, ngày 12 tháng 10 năm 2024, với sự tham dự của nhiều văn nghệ sĩ, các bằng hữu xa gần, các cơ quan truyền thông báo chí, và thân hữu của nhà văn Trịnh Y Thư. Mặc dù một buổi chiều Thứ Bảy với nhiều tổ chức sinh hoạt của các hội đoàn đoàn thể, các nhạc hội vận động tranh cử của các ứng cử viện gốc Việt đã tổ chức cùng một lúc, thế mà số người đến tham dự hơn 150 thân hữu và quan khách đã ngồi chật bên trong quán café, có lẽ vì Trịnh Y Thư là người đã sống và lăn lộn với nền văn học hải ngoại hơn mấy chục năm nay, cũng có lẽ vì Ông là một người bạn chân tình luôn hết lòng với bạn văn nghệ và được mọi người hết mực yêu mến.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.