Hôm nay,  

Nhà Văn Trịnh Y Thư ra mắt hai tác phẩm “Đường Về Thủy Phủ”, “Người Đàn Bà Khác” và giới thiệu Tạp Chí Ngôn Ngữ ấn bản đặc biệt Trịnh Y Thư

15/10/202410:36:00(Xem: 2301)
Hình chính
Hình: (từ trái, hàng trên) 1. Nhà văn Đăng Thơ Thơ nói về nhà văn Trịnh Y Thư và Đường Về Thủy Phủ. 2. Trịnh Y Thư ký tặng sách. 3.  Nhà báo Đinh Quang Anh Thái điều hợp chương trình. (Từ trái hàng giữa) 1. Nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc nói về tác phẩm. 2. Nhà văn Cung Tích Biền phát biểu. (Từ trái hàng cuối) 1. Tài tử Kiều Chinh mua sách và chúc mừng tác giả. 2. Họa sĩ Ann Phong và thân hữu mua sách và tác giả ký tặng. Ảnh: Raymond Addington.

 

Westminster (Thanh Huy) – Ba cuốn sách: Tiểu thuyết “Đường Về Thủy Phủ”; Tập truyện “Người Đàn Bà Khác”, và Tạp chí Ngôn Ngữ ấn bản đặc biệt Trịnh Y Thư, đã được ra mắt lần đầu tiên tại Coffee Factory, Westminster, Nam California vào lúc 4 giờ chiều Thứ Bảy, ngày 12 tháng 10 năm 2024, với sự tham dự của nhiều văn nghệ sĩ, các bằng hữu xa gần, các cơ quan truyền thông báo chí, và thân hữu của nhà văn Trịnh Y Thư.

Mặc dù một buổi chiều Thứ Bảy với nhiều tổ chức sinh hoạt của các hội đoàn, các nhạc hội vận động tranh cử của các ứng cử viện gốc Việt đã tổ chức cùng một lúc, thế mà số người đến tham dự hơn 150 thân hữu và quan khách đã ngồi chật bên trong quán café, có lẽ vì Trịnh Y Thư là người đã sống và lăn lộn với nền văn học hải ngoại hơn mấy chục năm nay, cũng có lẽ vì Ông là một người bạn chân tình luôn hết lòng với bạn văn nghệ và được mọi người hết mực yêu mến.

 

Những khuôn mặt quen thuộc từ nhiều lãnh vực trong cộng đồng nhận thấy có: Giáo Sư Lê Văn Khoa và phu nhân là Ca Sĩ Ngọc Hà, Ông Chánh Án Nguyễn Trọng Nho cùng phu nhân là Giáo Sư Phạm Vân Bằng, Nữ Tài Tử Kiều Chinh, Giáo Sư Trần Huy Bích, Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm và phu nhân là nhà văn Trần Ngọc Anh, Luật Sư Phan Huy Đạt và phu nhân, Giáo sư Vũ Tường của Đại học Oregon, Nhà thơ Trúc Chi cùng phu nhân, Nhà báo Phan Tấn Hải, Chủ nhiệm Việt Báo cô Nina Hòa Bình Lê, Nhà báo Doãn Quốc Hưng, Nhà báo Lý Kiến Trúc, Bác Sĩ Bích Liên và phu quân, Nhà Thơ Thành Tôn, Nhà Thơ Lê Hân, Nhà Thơ Nguyễn Tư Phương (từ San Jose), Nhà Thơ Vũ Hoàng Thư, Nhà Thơ Vũ Thùy Hạnh, Nhà Thơ Lê Chiều Giang (từ San Diego), Nhà Thơ Lê Giang Trần, Nhà Thơ Ngô Tịnh Yên, Nhà Văn Lê Lạc Giao, Nhà Văn Tô Đăng Khoa, Nhà Văn Trần C. Trí, Nhà Văn Trương Huy Văn, Nhà Văn Trần Yên Hòa, Nhà Thơ Nguyễn Đức Bạn, Nhà Văn Cung Tích Biền và phu nhân, Nhà Báo Kiều Mỹ Duyên, Nhà Văn Phạm Quốc Bảo, Nhà Văn Thái Vĩnh Khiêm, Nhà Văn Đào Ngọc Phong. Trong giới hội họa, có Họa sĩ Nguyên Khai, Họa sĩ Nguyễn Đình Thuần, Họa sĩ Phan Chánh Khánh, Họa sĩ Cao Bá Minh, Họa sĩ Ann Phong, Họa sĩ Ái Lan, Họa sĩ Nguyễn Việt Hùng, Họa sĩ Đào Nguyên Dạ Thảo, Họa sĩ Pauline Đàm. Giới Nghệ thuật trình diễn có các Ca Sĩ Nhật Hạ, Nguyễn Cao Nam Trân, Đồng Thảo (từ San Jose), Ái Liên, Thu Vân, Lâm Dung, Thu Vàng, Bích Liên. Trong giới âm nhạc có nữ nhạc sĩ Đào Nguyên (từ San Jose) và nhạc trưởng Thomas Ngô. Và, hai nữ xướng ngôn viên khả ái của OC cũng có mặt là cô Nhã Lan và cô ThụyVy, và nhiều thân hữu khác.


Buổi giới thiệu sách chính thức bắt đầu vào lúc 4 giờ chiều với phần điều hợp linh động và hào hứng của nhà báo Đinh Quang Anh Thái. Nhìn về phía khách tham dự, Ông đùa nói: “Hầu như toàn bộ tinh hoa văn hóa của cộng đồng người Việt Nam Cali chiều nay hội tụ ở đây, nếu có thế lực đánh phá tấn công thì chúng ta gần như… tiêu hết.”

 

Mở đầu chương trình, Trưởng Ban Tổ Chức, bà Nguyễn Thị Thanh Lương chào mừng quan khách tham dự và nói qua về lý do có buổi Ra Mắt Sách và giới thiệu nhà văn Trịnh Y Thư lên nói lời cảm tạ đến ban tổ chức cùng quý quan khách, thân hữu tham dự.

 

Trong bài phát biểu, nhà văn Trịnh Y Thư nói: “Chỉ còn ít tháng nữa là chúng ta bước sang năm thứ 50 của cuộc sống lưu vong, xa quê hương. 50 năm, nửa thế kỷ là một quãng thời gian rất dài trong một đời người, biết bao biển dâu, dời đổi xảy ra trong suốt thời gian ấy, làm sao chúng ta nhớ hết được. Nhưng có một điều bám chặt mãi trong tâm tư chúng ta, không cách gì gỡ ra được, đó là cái lịch sử khốc liệt đầy dẫy những thảm cảnh trên quê hương mà ít nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp, chúng ta đều đã trải qua và gánh chịu. Nó sẽ ở lại với chúng ta cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay. Sự thật là chúng ta không thể bôi xóa quá khứ và cách hay nhất cho chúng ta tìm ra sự an ủi phần nào là ký thác nó vào văn chương. Bởi văn chương là liều thuốc nhiệm mầu có thể hóa giải bớt những đau đớn, trầm luân của kiếp người. Tôi quả thấy đó là điều may mắn. Bởi qua văn chương, tôi tìm thấy niềm hy vọng. Hy vọng văn chương là sợi dây thắt buộc chúng ta vào nhau, vẫn nhìn nhau như con người với tất cả tình thương yêu và sự quý trọng.

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc yêu chuộng thơ văn. Ai cũng biết như vậy. Biến cố đổi đời 30/4/75 không hề thay đổi tâm thức đó trong lòng người Việt dù phải lìa bỏ quê hương. Và chỉ vỏn vẹn 3 năm trôi qua từ cái biến động tang thương đó, chính xác là tháng Tư năm 1978, nhà văn Võ Phiến và nhà văn Lê Tất Điều cho ra mắt cộng đồng tờ Văn Học Nghệ Thuật, một tạp chí chuyên đề văn chương. Và từ buổi đó cho đến ngày hôm nay, văn học luôn là một sinh hoạt, tuy không ồn ào náo động nhưng luôn âm ỷ và bền bỉ, trong giới yêu mến chữ nghĩa và độc giả khắp nơi.

Dòng văn học hải ngoại, theo tôi, sở dĩ được quý trọng là vì đó là một nền văn học nhân bản mang tính tự do và khai phóng. Nói như thế vì tôi nghĩ nó kế thừa các tố chất này của nền văn học miền Nam Việt Nam trước 75. Kế thừa nhưng không lặp lại cái cũ, mà cách tân. Đó chính là con đường chúng ta đang đi ngày hôm nay ở hải ngoại.

 

Và chúng ta không thể không nhớ đến những nhà văn nhà thơ một thời đã ở với chúng ta mà nay không còn nữa. Tôi muốn nhân dịp này cùng quý vị và các bạn thắp một nén tâm hương đến những người anh người chị văn nghệ như Mai Thảo, Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện, Nguyễn Xuân Hoàng, Vũ Khắc Khoan, Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Thảo Trường, Minh Đức Hoài Trinh, Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Mộng Giác, Viên Linh và biết bao vị nữa mà tôi không thể nêu hết ra đây được. Họ là những người từ thuở ban đầu đã có công vun xới, xây dựng một nền văn học hải ngoại như tôi vừa đề cập bên trên. Những cuốn sách khiêm tốn của tôi ra mắt ngày hôm nay không thể có được nếu không có những tác phẩm của các vị đàn anh đàn chị đó làm bảng chỉ đường cho tôi noi theo. Tri ân họ, vì tôi cảm thấy tôi chịu ơn họ vô cùng.”


Sau đó Nhà Văn Đặng Thơ Thơ lên giới thiệu về tác giả Trịnh Y Thư, Bà cho biết:

“Trịnh Y Thư là người đa tài: viết văn, làm thơ, chơi đàn, soạn nhạc, dịch thuật và viết nhận định văn học. Anh từng làm chủ bút tạp chí Văn Học, sau này phụ trách Việt Báo Weekly News và nhà xuất bản Văn Học Press. Anh đã đóng góp cho nền văn học hải ngoại hầu như trong mọi lãnh vực trong bốn thập niên vừa qua. Tầm ảnh hưởng của Trịnh Y Thư còn tỏa rộng đến độc giả trong nước với những tập truyện ngắn cũng như các tác phẩm dịch thuật của anh.

 

Trong Trịnh Y Thư có một trí thức và một nghệ sĩ luôn kết hợp với nhau khi viết văn, làm thơ, viết nhận định. Văn nghiệp Trịnh Y Thư vì vậy có sự cân đối giữa các mảng phân tích và sáng tác, hư cấu và lý luận. Qua những tác phẩm và những cuộc phỏng vấn, chúng ta thấy sự trình bày của anh về mọi vấn đề đều có sự kết hợp đó, giữ cho mọi thứ ở trạng thái quân bằng, trung dung mà vẫn cô đọng và chuẩn xác. Điều này làm nên tính cách Trịnh Y Thư luôn chừng mực, cẩn trọng, tránh sự thái quá cực đoan, càng biết nhiều hiểu rộng lại càng khiêm tốn.

 

Cái đọc của Trịnh Y Thư phong phú, đa dạng, mới mẻ. Anh có sự cảm thụ văn chương và các bộ môn nghệ thuật sâu sắc, một tâm hồn nghệ sĩ mẫn cảm, một thái độ trầm tĩnh trước cuộc sống và sự nắm bắt tinh nhạy về nhân sinh của một người thông hiểu nhiều nền văn hóa. Có thể thấy cái đọc của anh góp phần vào cái viết tạo nên văn cách Trịnh Y Thư. Các bài tạp luận, ký, tùy bút trong hai cuốn Chỉ là đồ chơiTheo dấu thư hương là khung cửa mở ra những thế giới tạo thanh, tạo hình, tạo nghĩa và mời gọi người đọc cùng đi theo anh vào hành trình thưởng thức thi ca, văn chương, âm nhạc, hội hoạ, và cuộc sống.

 

Trong sáng tác văn xuôi, Trịnh Y Thư có lẽ là người đầu tiên đưa kỹ thuật siêu hư cấu và giải cấu trúc kiểu Milan Kundera vào tiểu thuyết (Đường về thủy phủ) và các truyện ngắn (trong tập truyện Người đàn bà khác), qua đó chúng ta thấy tác giả lên tiếng trực tiếp giữa các diễn biến, can thiệp vào dòng suy nghĩ của nhân vật, và giải thích tiến trình câu chuyện. Thật ra, điều này luôn xảy ra với người viết khi tìm cách xử trí tình thế và lý giải nhân vật, chỉ có điều là chúng ta không viết ra, mà giữ lại trong vùng khuất của tư duy sáng tác, cất giữ trong ngăn kéo bí mật của người viết. Trong các tác phẩm của Trịnh Y Thư, anh đẩy bàn viết, mở ngăn kéo, đưa không gian viết của anh đến sát gần người đọc. Kỹ thuật viết như thế cho người đọc cảm thức vừa xem màn kịch trên sân khấu vừa chứng kiến mọi tình tiết trong hậu trường – có đạo diễn điều động, có diễn viên chuẩn bị đạo cụ và y trang – thấy mọi thứ vừa có liên quan với nhau vừa hướng đến những tự sự khác nhau, tạo ra những chiều kích mới cho việc sáng tác và thưởng thức. 

 

Trịnh Y Thư có công lớn trong việc đưa những tác giả ngoại quốc đến với người thưởng ngoạn văn chương trong và ngoài nước, từ những người viết cổ điển đến hiện đại, rồi đương đại. Tuy số lượng sách dịch trong nước rất nhiều nhưng dịch giả có trình độ chuyên môn như Trịnh Y Thư lại rất hiếm. Anh là một trong số hiếm hoi những nhà văn viết thông thạo và nắm được linh hồn của cả hai ngôn ngữ Anh-Việt. Những bản dịch của anh, ngoài việc chính xác và trung thành với nguyên tác về ngữ nghĩa và ý tưởng, còn có sự linh động, uyển chuyển và tài hoa trong việc vận dụng chữ nghĩa để tái tạo một tác phẩm văn học trong một ngôn ngữ khác.

 

Đấy là Trịnh Y Thư, người đa tài, đa đoan và đa mang (chữ anh dùng cho chính mình). Bây giờ là một trong những nhân vật cột trụ của văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư vẫn là người trầm lặng, và thầm lặng nữa, ngay giữa đám đông. Anh như luôn ưu tư về một điều gì đó, như có gì đang bủa vây tâm trí mà không thể nói ra, khiến ngay giữa cuộc vui anh cũng như chỉ tham gia một nửa. Trịnh Y Thư ngồi giữa mọi người mà vẫn là một khối cô đặc, được tạc vào một vùng khí trong suốt và không thể xuyên thủng, như một hiện hữu đóng băng trong một thế giới riêng. Trong thế giới đó, Trịnh Y Thư đang đối mặt với những thứ “chỉ là đồ chơi” đang tranh giành nhau sự chú tâm của anh: một đoạn văn dịch, một luận đề, một ý tưởng cho tiểu thuyết, một hòa âm cho bản đàn đang soạn… Hoặc có thể anh đang trú ẩn trong không gian của riêng anh, không gian có “Duềnh quyên bóng động hai hàng, Nghìn thu từ độ vẫn bàng hoàng trôi”, của những ý thơ, những thi ảnh, những khả thể của cảm xúc và sáng tạo”.

 

Tiếp theo Nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc lên nói về tác phẩm (rất tiếc phần âm thanh vì lý do kỹ thuật không sử dụng được nên phần phát biểu chỉ giới hạn cho những người ngồi gần mới nghe được ông nói). Một bài nhận định khá dài của tiểu thuyết “Đường Về Thủy Phủ” (độc giả có thể đọc trong cuốn sách)… Có đoạn ông cho biết:

 

“Cuốn sánh vẽ ra được một toàn cảnh với các chi tiết, tạo được một ấn tượng về cuộc chiến, về không gian và cuộc sống xã hội, lịch sử của các giai đoạn gối tiếp nhau. Và về cuộc bể dâu mà con người phải đối mặt, với những quyết định sai lầm của chính nó. Hay với cái “quyết định”, cái hướng đi mù lòa, xiên xẹo và xộc xệch của lịch sử […] Cuốn tiểu thuyết nầy, với lịch sử được dùng làm phông nền qua những gam mẩu rất mờ nhạt, và ước muốn của nó, theo tôi thấy, là hướng về phía ánh sáng, về sự yên bình, về sự xoa dịu, qua lòng hiểu biết và niềm tin vào cái thiện, cái tốt…”

Nhà Văn Cung Tích Biền, cựu chánh án Nguyễn Trọng Nho, nữ tài tử Kiều Chinh và nhà xuất bản Lê Hân cũng lên gửi lời chúc mừng và chia sẻ cảm nghĩ về tác giả, tác phẩm. Nữ tài tử Kiều Chinh nhắc lại câu nói bà thường nói với mọi người: "Không có Trịnh Y Thư thì không có cuốn 'Kiều Chinh: Nghệ Sĩ Lưu Vong'. Được biết Trịnh Y Thư chính là người chịu trách nhiệm biên tập và xuất bản cuốn Hồi Ký nổi tiếng của người diễn viên huyền thoại của Việt Nam này.

Lẽ ra buổi ra mắt sách có phần văn nghệ đặc biệt do các nghệ sĩ thân hữu trình diễn, vì lý do âm thanh nên phần văn nghệ không được thực hiện, nhưng mọi người vẫn ngồi lại chuyện trò cùng tác giả đến phút chót trong không khí thân tình. 

 

Bạn đọc muốn mua sách, xin truy cập vào các đường dẫn sau:

 

Tiểu thuyết “Đường Về Thủy Phủ”:

 

Duong ve thuy phu by Trinh Y. Thu, Hardcover | Barnes & Noble® (barnesandnoble.com)

 

Tập truyện “Người Đàn Bà Khác”:

 

Nguoi dan ba khac by Trinh Y. Thu, Hardcover | Barnes & Noble® (barnesandnoble.com)

 

Tạp chí Ngôn Ngữ ấn bản đặc biệt Trịnh Y Thư:

 

Ngon Ngu An Ban Dac Biet Trinh Y Thu by Trinh Y. Thu, Paperback | Barnes & Noble® (barnesandnoble.com)

 

Amazon.com: Tạp Chí Ngôn Ngữ Số Đặc Biệt - Trịnh Y Thư - Văn chương - Nghệ thuật & ... - groundwood paper) (Vietnamese Edition): 9798330332601: Trinh, Y Thu: Books

 

Hoặc liên lạc với tác giả qua địa chỉ email sau để mua sách có chữ ký của tác giả: [email protected]

 

Thanh Huy – Việt Báo  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.