Hôm nay,  
DAVEMIN.COM

Truyền Thuyết - Huyền Thoại Giao Thoa Cùng Thơ Văn Và Sử Liệu

14/09/202413:33:00(Xem: 2132)
1.  Hoa Anh Đào
hoa đào

Tranh minh họa tìm thấy trên mạng-không biết tác giả.

                                          
Theo truyền thuyết của Nhật Bản kể lại rằng, tại một làng nọ gần núi Phú Sĩ, có một cậu bé, khôi ngô tuấn tú. Một đạo sỹ ghé qua nhà và để lại môt thanh kiếm sắc đen bóng với lời nhắn nhủ rằng số phận đã an bài bé trai trong nhà này sẽ trở thành môt võ sĩ đạo-Sumarai-kiệt xuất. 
 
Đến năm 14 tuổi cậu bé được mẹ  trao cho cây kiếm và kể từ đó môt ý chí thôi thúc trong cậu quyết tâm trở thành một kiếm sĩ lừng danh. Chàng được môt đạo sỹ có tiếng nhận cậu làm học trò.  Và từ đó, chàng chuyên tâm tâp luyện với tất cả đam mê, tham vọng. Năm 18 tuổi mặc dầu tài năng đã đạt đến mức độ mọi người kiêng nể, nhưng chàng thanh niên vẫn chưa trở thành môt Sumarai đúng nghĩa nếu thanh kiếm sắc của chàng chưa vấy máu ai vì chàng không có kẻ thù, cũng không một ai  dám thách đấu với chàng.

Nhìn chàng trai buồn bã vì giấc mơ chưa thành hiện thực, con gái của thầy cũng là người yêu của chàng đã tự nguyện dùng kiếm của chàng đâm vào tim mình để giúp người yêu được toại nguyện.
 
Từ đó ước mơ của chàng đã trở thành sự thật, nhưng chàng Sumarai vẫn buồn đau và cô độc, tiếc thuơng người bạn gái đã hy sinh vi tước hiệu Sumarai của chàng. Chàng đến mộ người yêu và tự sát cũng chính bằng thanh kiếm của chàng. Từ đó ở nơi chàng ngã xuống  mọc lên cây hoa lạ với màu hồng thắm mong manh. Đó chính là Sakura-Hoa Anh Đào.  Tứ đó Sakura-hoa Anh Đào- mọc lan tràn trên khắp nước Nhật, tạo nên một phong cách sống đặc thù của người Nhật qua câu nói nổi tiếng phát xuất từ câu chuyện trên: ”Nếu là hoa xin hãy là Sakura - Nếu là người xin hãy là Samurai.
 
2.  Hoa Đào


Hoa Đào 2

Tranh minh họa bài thơ Thôi Hộ. Tìm thấy trên mạng.


Thời xưa ở Trung Hoa có chàng trai Thôi Hộ lận đận về đường khoa cử lại là người tuấn nhã phong lưu, có cuộc sống khép kín và ít giao du. Môt lần vào  tiết Thanh Minh, chàng trai Thôi Hộ dạo chơi phía Nam thành Lạc Dương. Nhận thấy khuông viên nhà ai trồng đào rất đẹp tươi thắm sắc hoa, chàng bèn gõ của xin nước uống. Lát sau lại thấy môt thiếu nữ e ấp núp sau vườn đào. Uống nước xong chàng ra đi.
 
Năm sau cũng trong tiết Thanh Minh, chàng trai Thôi Hộ trở lai chốn cũ nhưng cổng đóng then gài, gọi mãi không thấy ai. chàng viết bài thơ  tứ tuyệt: Đề Đô Thành Nam Trang, rồi gài trên cổng:
 
Khứ niên kim nhật thư môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu Đông phong
 
DỊCH
 
Cửa kia năm trước,ngày này
Hoa đào soi ánh đỏ ngây mặt người
Người xưa nay ở đâu rồi
Hoa đào năm ngoái vẫn cười gió Đông
 
Vai ngày sau, Thôi Hộ trở lại, chợt nghe tiếng khóc từ trong nhà vọng ra. Rồi thấy một ông lão bước ra và hỏi chàng có phải là Thôi Hộ?  Và cho biết con gái của cụ sau khi đọc xong bài thơ, nàng bỏ ăn uống trong mấy ngày qua, bây giờ đang chết. Thôi Hộ tìm đến quì xuống bên cạnh xác người con gái, tuy đã ngưng thở nhưng xác còn ấm, mặt hoa còn hồng. Chàng ôm lấy xác người con gái, thương tiếc than khóc thảm thiết. Bỗng nhiên người con gái sống lại. Và họ trở thành vợ chồng.
  
Đến năm 796, niên hiêu Trinh Nguyên, Thôi Hộ đậu Tiến Sĩ, đươc nhà vua cử đi làm Tiết Độ Sứ ở tỉnh Lĩnh Nam.
  
Truyền thuyết trên có nhiều chi tiết đậm chất hư cấu, như người con gái chết đi và sống lại.  Nhưng nhân vật Thôi Hộ và bài thơ Đề Đô thành Nam Trang và năm 796, niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường là những dữ kiện có ghi rõ trong lich của Trung Quốc. Xuyên qua truyện hoa Đào người đọc thấy rõ nét giao thoa giữa truyền thuyết, huyền thoại vơi thi ca tạo nên nét đặc thù trong nền văn học nghệ thuật của Trung Quốc rất là lý thú.
 
3.  Hoa Mẫu Đơn
 
Mẫu đơn
Tranh minh họa tìm thấy trên mạng-Không rõ tác giả.

Theo truyền thuyết dưới thời vua Trần Thuận Tông (1388-1398) có chàng trai tên là Từ Thức quê ở Hóa Châu thuộc Thanh Hóa, xuất thân là phụ ấm, được bổ làm Tri Huyện xứ Kinh Bắc, thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Tuy là chức sắc tri huyện, Từ Thức tánh tình hào hoa phong nhã, thích ngao du sơn thủy làm thơ ca tụng cảnh đẹp thiên nhiên. Chàng không màng đến chức năng Tri Huyện.
 
Gần xứ Kinh Bắc, huyện Tiên Du, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay,  có chùa Phật Tích, đẹp, cổ kính, trồng rất nhiều hoa Mẫu Đơn, đến mùa hoa nở  trông thật đẹp vô cùng quyến rũ khách thập phương. Trong số khách đến viếng chùa, có người con gái chừng độ tuổi trăng tròn, không son phấn điểm trang, nhưng nàng trông thật diễm lệ. Nàng nâng niu từng cành hoa mẫu đơn. Trong lúc sơ ý nàng vướn gẫy một cành hoa. Người coi vườn bắt trói nàng đòi tiền chuộc tội. Khách thập phương ai cũng chua xót cho nàng nhưng không ai có đủ tiền để chuộc tội cho nàng. Từ Thức thấy vậy bèn cởi áo khoát bên ngoài làm bằng long cừu đưa cho người giữ vườn để chuộc tội cho nàng. Tất cả mọi người đều cảm kích trước nghĩa cử của Từ Thức. Riêng người con gái, nàng rất cảm động và ngỏ lời cám ơn ân nhân của mình.

Sau dạo ấy, Từ Thức tiếp tục ngao du sơn thủy. Không phong cảnh nào đẹp và ngoạn mục ở xứ Kinh Bắc, mà chàng không ghé qua thưởng lãm, tức cảnh  làm thơ.

Một buổi sáng, cửa Thần Phù hiện ra trước mắt chàng, một khung trời biển mênh mông. Từ Thức đưa thuyền ra cửa Thần Phù hướng về phướng Đông. Từ phương xa trên biển cả, hiện ra một cảnh trí đẹp như tiên giới.  Chàng đến gần, vịn vách làm bằng đá hoa cương. Tức cảnh chàng làm bài thơ dán lên vách đá, tức thì vách đá mở toang ra môt lối đi vào. Chàng bước vào, lập tức cửa động khép lại ngay sau lưng chàng, và trước măt chàng hiện ra cảnh đẹp với những tiên nga đang ca vũ khúc Nghê Thường. Cả một thế giới non Bồng nước Nhược bềnh bồng trên mây... Từ Thức đi qua cổng đề: ”Điện Quỳnh Hư” dẫn chàng đến “Gác Dao Quang” nơi đây chàng găp một Đạo Cô mặc áo trắng cho chàng hay:  đây là núi Phù Lai, một động tiên thứ 6 trong 36 động tiên, ở cõi phương Nam, bềnh bồng trên biển, hợp tan trên sóng nước. Ta thấy chàng là người đức cao nghĩa trọng, giúp người trong cơn nguy khốn nên mới làm phiền mời người đến đây. Đoạn một tiên cô xuất hiện Từ Thức nhận ra ngay là cô gái trước kia chàng đã gặp tại chùa Phât Tích ở Kinh Bắc. Cô tiên cho chàng hay tên mình là Giáng Hương, đã gặp nạn khi xem hoa, được chàng giúp đỡ.  Ơn ấy không quên nay muốn kết duyên cùng chàng  để đền ơn xưa...
 
Thấm thoát, Từ Thức kết duyên cùng Giáng Hương ở cõi tiên vừa chừng một năm. Sau những tháng tình nồng chăn gối, đầu áp má kề, Từ Thúc cảm thấy đôi khi có những đêm trăng lạnh, sương rơi, lòng chàng bâng khuâng nhớ nhà, nhớ quê hương ở cõi trần thế.. Cầm lòng không được, môt hôm chàng ngỏ lới với Giáng Hương chàng muốn trở lại trần thế để thăm lại quê hương, sau đó chàng sẽ trở lại nơi đây với nàng. Nghe vậy, Giáng Hương khóc, nói:” Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản nỗi lòng nhớ nhà của chàng. Song trần gian nhỏ hẹp, kiếp người ngắn ngủi, một ngày ở nơi tiên giới dài bằng một năm ở cõi trần, dù chàng có về thiếp e sân liễu, vườn hoa, cảnh cũ, người xưa không còn nữa...
 
Cuối cùng Giáng Hương cũng phải chấp nhận cảnh chia tay. Nàng trao cho Từ Thức môt phong thư và dặn rằng khi về đến trần thế mới mở ra xem. Từ Thức giã từ Giáng Hương trên chiếc xe tiên, trong một thoáng chàng đã đến cõi trần. Từ Thức tìm lại cảnh cũ người xưa không còn nữa, toàn những người  xa lạ trong cách ăn mặc và giọng nói trong lúc trao đổi vối chàng. Có một bà cụ già, trăm tuổi, cho chàng hay, cụ tổ 4 đời trước của bà, có kể  cho con cháu nghe chuyện truyền thuyết về một người tên là Từ Thức đã đi lạc vào cõi tiên trên biển  cách đây 300 năm hơn... Nghe đến đó Từ Thức giật mình, chợt nhớ đến phong thơ chàng mở ra xem, thấy 4 câu thơ với nét chữ của Giáng Hương đẹp tuyệt trần:
 
Kết lửa phượng trong mây
Nay duyên xưa đã tận
Non tiên trên biển lớn
Khó có ngày trùng lai...
 
Đọc tới dó, Từ Thức mới biết bài thơ là những lời của Giáng Hương giã biệt chàng. Bây giờ chàng mới cảm thấy cô đơn, xa mất người yêu, xa lạ với chính quê hương mình. Chàng mặc lại áo khoát đi vào núi Hoành Sơn và không ai thấy chàng trở lại, không biết chàng đã đi đâu về đâu? Tuy nhiên tư duy về tình yêu và quê hương của Từ Thức đã là chủ đề và là nguồn cảm hứng muôn thuở cho thi ca, văn chương và triết học…

    

Đào Như

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thế kỷ 19 có một sự cộng tác đặc biệt của một số người Minh Hương ở Chợ Lớn và các nhà khắc ván ở vùng Phật Trấn (Quảng Đông, Trung Quốc) để thực hiện khắc ván, in và phát hành sâu rộng những tác phẩm Việt Nam viết bằng chữ Nôm.
Lily, cô gái con người quản gia, thực sự không giây phút nào được nghỉ chân. Cô vừa mới đưa một quý ông vào gian phòng nhỏ phía sau văn phòng ở tầng trệt và giúp ông cởi áo khoác ngoài thì tiếng chuông cửa rè rè lại vang lên và cô lại phải tất tả bước dọc theo hành lang trống trải để đón một vị khách khác vào.
Nhân câu hỏi ông Đặng Minh Phương nêu ra, xin được đóng góp chút ý kiến khiêm nhượng vào chuyện này. Để giúp các bạn trẻ từ trước chưa có hoàn cảnh biết nhiều về mấy câu thơ trên, tôi xin được tóm lược câu chuyện từ đầu.
Chủ đề chính kết nối các truyện ngắn trong tuyển tập Beyond Borders (Vượt Qua Những Biên Giới) (nxb Da Màu Press) là khái niệm phức tạp và đa diện về biên giới. Như tựa của tuyển tập, mỗi câu chuyện hứa hẹn một khám phá đặc thù về khái niệm này. Biên giới là gì? Liệu đó có phải là một ranh giới hữu hình, như một hàng rào hay trạm kiểm soát phân chia các không gian địa lý và chủng tộc? Hay thuật ngữ này cũng đã khai triển/mở rộng để bao hàm những ranh giới hầu như vô hình và vô thức, như các cấu trúc ngôn ngữ, xã hội và văn hóa đã định hình bản sắc và mọi liên hệ cá nhân và tập thể? Có lẽ trong thế giới ngày càng kết nối chặt chẽ của chúng ta, biên giới hiện diện khắp nơi, cả hiển nhiên lẫn tiềm ẩn.
Từ khi du học ở Pháp vào đầu thập niên 1950’, trở về Việt Nam làm việc cho hãng Shell rồi sang Pháp làm việc cho đến khi về hưu và định cư cho đến nay… cả cuộc đời nhà văn Tiểu Tử gắn bó với tiếng Pháp nhưng khi cầm bút nơi xứ người với văn phong đặc biệt “miền Nam”, giản dị, ngắn gọn, chân chất, dí dỏm từ giọng văn và các mẩu đối thoại. Về tiểu sử cũng ngắn gọn: Tiểu Tử tên thật là Võ Hoài Nam, sinh năm 1930 tại Gò Dầu Tây Ninh. Ông là con trai duy nhứt của nhà giáo Võ Thành Cứ, giáo sư trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn. Tốt nghiệp Kỹ sư, Marseille năm 1955. Dạy lý hoá trung học ở ngôi trường nầy niên khóa 1955-1956. Tháng 10/1956 làm việc cho hãng dầu Shell Việt Nam từ năm tháng 10 1956 đến 30/4/1975. Trong 3 năm (1975-1978) được trưng dụng làm việc cho hãng nầy. Trong thời gian đó, vượt biên 3 lần nhưng thất bại. Vượt biên cuối năm 1978. Định cư ở Pháp từ đầu năm 1979. Làm việc cho hãng đường mía của Côte d’ Ivoire (Phi Châu) 1979-1982. Làm việc cho hãn
Hôm nay là ngày lễ Manman Aloumandia, ngày giỗ tổ tiên của người Haiti vào cuối tháng Chín. Nhà nào cũng chuẩn bị thức ăn truyền thống và hành lễ cảm tạ ông bà đã giữ gìn an toàn cho con cháu, nhất là sau vụ bị hàm oan, họ càng thấm thía sự bình yên hơn. Di dân, hầu hết là tha phương bất đắc dĩ, như phận gái đi lấy chồng, mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu.
Những tia nắng hồng cuối cùng đã tắt trong ánh hoàng hôn chiều tà nhưng bầu trời vẫn trong sáng từ một thứ ánh sáng huyền bí; vẫn chưa có vì tinh tú nào xuất hiện, tuy nhiên màn đêm hôm nay hẳn là một trong những buổi chiều tối đẹp nhất mà cả thế gian này chưa từng bao giờ chứng kiến. Bên phía đại dương, nhìn như có vẻ tối tăm sẫm màu hơn dưới bầu trời rực sáng; bóng tối hoặc ánh màu phản chiếu không còn in trên nền đất liền màu nâu đậm nữa; toàn bộ phần vách đã gần đó giờ chỉ còn là một khối khổng lồ, là một khối đá hoa cương khô khan chênh vênh, nguy hiểm. Con đường mòn gồ ghề trắc trở chạy men theo bờ biển dọc theo những tảng đá, nơi đó những con sóng rì rầm đập vào không ngớt, nơi đây những người dân làng có việc cần hoặc những người chăn cừu đưa bọn cừu hoang dã chưa được thuần thục đã dẫm đạp lên ngàn vạn lần.
Cuốn sách này không ở đâu có, kể cả thư viện quốc hội Hoa Kỳ. Chỉ bạn có và người Việt có. Nhưng bạn không thể đọc hết hơn ngàn trang trong một lần. Chỉ đọc bài nào vừa ý. Những bài khác cứ hẹn tái ngộ, vì, có khi, một hôm bạn sẽ thích một bài mà bạn không thích trước đây. Có thích mới muốn đọc nhưng thích là động lực tâm tình giới hạn trí tuệ.
Lần cuối, nghĩa là lần mới nhất, không phải là lần cuối cùng, tôi gặp Trương Vũ tại nhà của Trần Vũ, khi Trương Vũ ghé Quận Cam, trước khi anh bay lên Bắc California để thăm chị ruột của anh, họa sĩ Trương Thị Thịnh. Lúc đó là, có lẽ năm ngoái. Lúc đó, mối giao tình của Trương Vũ và tôi đã trải rộng từ hơn ba thập niên, từ những ngày tôi còn ở Miền Đông Hoa Kỳ. Thời xa xưa, tôi gọi anh bằng tên là anh Sơn, anh Trương Hồng Sơn, khi nhìn anh như một nhà khoa học. Và nhiều năm sau, khi đọc nhiều bài viết của anh trên Văn Học và Hợp Lưu, tôi gọi anh qua bút hiệu là Trương Vũ. Rồi vài năm gần đây là nhìn anh như họa sĩ. Thời gian đã cho anh hiển lộ qua nhiều tài năng, và với rất nhiều tóc bạc. Nhưng nụ cười của Trương Vũ vẫn hiền lành, đôi mắt vẫn tinh anh, cử chỉ và thái độ vẫn luôn là từ tốn, cẩn trọng, dịu dàng.
Trải qua gần bảy thập niên, từ cuối thập niên 1950’ đến nay, trong lãnh vực báo chí và văn chương, tên tuổi Trần Dạ Từ, Nhã Ca nổi bật, quen thuộc với giới báo chí, văn nghệ sỹ và độc giả từ miền Nam Việt Nam ở hải ngoại. Với nhiều bài viết về Trần Dạ Từ trên nhiều khía cạnh trong sự nghiệp và sáng tác nên nếu viết cũng là sự lặp lại, vì vậy trong bài viết nầy trích dẫn bạn văn, bạn tù đã sống gần gũi nhau đã viết về ông, nhất là bạn tù.
DAVEMIN.COM
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.