Tháng Sáu mọi người sửa soạn chào đón Ngày Father’s Day, Ngày Của Cha. Công Cha như Núi Thái Sơn,Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha,Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con!
Bài ca dao đã đi sâu vào lòng người bởi những hình ảnh so sánh rất độc đáo: “Công cha với núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ với nước trong nguồn”. Hình ảnh “núi Thái Sơn” là ngọn núi cao, đồ sộ vững chãi nhất ở Trung Quốc. “Nước trong nguồn” là dòng nước tinh khiết nhất, mát lành nhất, dạt dào mãi chẳng bao giờ cạn. Từ hiện tượng cụ thể ấy, tác giả dân gian đã ca ngợi công lao của cha mẹ. Tình cha mạnh mẽ, vững chắc, tình mẹ thật ngọt ngào vô tận và trong sáng. Ân nghĩa đó to lớn, sâu nặng biết bao. Chính vì vậy mà chỉ có những hiện tượng to lớn bất diệt của thiên nhiên mới có thể so sánh. Công lao đó, ông cha ta khuyên mỗi chúng ta phải làm tròn chữ hiếu để có thể phần nào bù đắp lại công ơn trời biển của cha mẹ. Bao bút mực đã viết về Tình Cha, câu tục ngữ “Con không Cha như nhà không nóc”đã nói lên sự tối quan trọng của người Cha trong gia đình. Trong cuộc chiến Ba Mươi Năm 1945-1975 bao oan khiên, máu và nước mắt, bao triệu người đã khổ đau mất Cha. Xin hết lòng tri ân những người Cha, người Chồng, người Anh, người Em và gia đình họ đã hy sinh bảo vệ cho chính nghĩa.
Bút mực nào viết hết cho được về những oan khiên, đau khổ đã xẩy ra cho thế hệ của chúng tôi, thế hệ ở vào tuổi trên 60 tuổi trở lên, thế hệ chịu bao nhiêu hậu quả Đổ Vỡ và Dang Dở của cuộc chiến Ba Mươi Năm 1945-1975. Xin kể lại một thí dụ nhỏ về Đổ Vỡ và Dang Dở, Lễ Tốt Nghiệp mùa Hè năm 1974 của các sinh viên khoá 1971-1974, Ban Sử Địa Đại Học Sư Phạm Saigon. Lễ Tốt Nghiệp được đặt tên là Trao Hành Trang, với bao ước nguyện của các sinh viên tốt nghiệp là các vị thày tương lai sẽ đạt dược nguyện vọng Lương Sư Hưng Quốc. Sau Biến Cố 30/4/1975, nguyện vọng chỉ còn là vô vọng mà thôi! Các Thày Cô tốt nghiệp nay đã ở tuổi thất thập cổ lai hy.
Từ đầu tháng Sáu, thấy tôi nước mắt nhạt nhòe đọc đi đọc lại tin buồn về một vị y sĩ Thủy Quân Lục Chiến, Anh Tr. X. Dũng vừa mới vĩnh viễn ra đi, Anh Dũng là anh ruột của T. Vi, cô bạn tuổi thơ của tôi. Nhà Tôi bảo tôi đừng khóc nữa Vân, em biết thế hệ chúng ta là thế hệ Đổ Vỡ và Dang Dở mà! T. Vi có hai người Anh trai, họ mất Mẹ rất sớm, khi người Anh lớn tuổi lên 10, hai Anh trai của T. Vi đều là hai Y Sĩ nổi tiếng. T. Vi rất nhỏ khi mất Mẹ nhưng T. Vi, thuyền nhân tị nạn, là người rất gỉỏi giang, rất chịu khó, đi làm cả đời một việc toàn thời gian và một việc bán thời gian và hết sức lo săn sóc, bảo trợ cho nhiều người. Xin mạn phép chép lại lời của Anh Đặng Kh. Khánh, rất thân với chúng tôi và cũng thân quen với gia đình T. Vi, đã viết cho tôi khi tôi báo tin buồn “... rất bàng hoàng vì chúng ta đã mất một nhà đấu tranh đầy nhiệt huyết...” Anh Tr. X. Dũng là tác giả tác phẩm Văn Hóa Quân Đội, ngoài ra Anh Tr. X, Dũng còn làm thơ rất hay nữa. Xin mạn phép chép lại bài viết của Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Liên Bang Úc Châu:
Bài Xướng: Sống Chẳng Còn Quê
Nghe chó sủa khuya, thấy não nề Nhắc đời đất khách kéo lê thê Ta vì thảm họa miền Nam mất Sống chẳng còn quê, thác chẳng về.
Bài Họa: Thác Sẽ Về
Dù trải phong ba, giữ lấy nề Tài, Tâm, Đức, Tuệ , có Hiền Thê Quốc Gia, Chính Nghĩa : Không hề mất Sinh dẫu tha hương : Thác sẽ về
Sinh dẫu tha hương : Thác sẽ về Thăm từ làng mạc đến sơn khê Thăm Sài Gòn với Kinh Nhiêu Lộc Thăm Tiếc Thương : Ngồi đấy lạnh tê
Thăm Tiếc Thương : Ngồi đấy lạnh tê Bao ngàn Chiến Sĩ vẹn câu thề Hy sinh xương máu cho hồn nước Thân xác bao lần gối ruộng, đê
Thân xác bao lần gối ruộng, đê Tinh thần chiến đấu vẫn đam mê Ta vì Tổ Quốc, vì Dân Việt Lưu lạc muôn trùng, vẫn nhớ quê
Lưu lạc muôn trùng, vẫn nhớ quê Rồi đây vận nước: Khắp nơi nghe Độc Tài Cộng Sản không còn nữa Toàn thể dân ta sẽ họp về
(Đức Hùng, Sydney, Úc Châu, 27/08/2018)
Viết tới đây lại ngậm ngùi nghĩ tới bài hát của Nhạc Sĩ Trần Thiện Thanh và xin chép lại vài câu trong bài hát thay cho kết luận:
Anh không chết đâu anh, người anh hùng mủ đỏ tên Đương Tôi vẫn thấy đêm đêm một bóng dù sáng trên đồi máu Nghe trong đêm kêu gào từng tiếng súng pháo đếm mau Và tiếng súng tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi anh đi…
1)Tưởng niệm MC Phạm Phú Nam
2)Nhớ về cuộc di cư 1954.
3)Chiếu Phim Sài gòn trước 75
4)Chào đón minh tinh Kiều Chinh đến San Jose.
Chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7 năm 2024 vừa qua chúng tôi đã có dịp nhân danh Viet Museum kịp thời trả những món nợ cho lịch sử. Số là anh chị em chúng tôi vẫn còn nhớ về chuyến di cư 1 triệu người từ Bắc vào Nam 70 năm xưa.
Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-1924 tại Paris. Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm, từ Việt Nam đến Paris.
Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964). Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.
Khi lần đầu tiên gặp một họa sĩ, tôi thường có khuynh hướng tìm vài nét tương đồng để liên tưởng đến một họa sĩ nổi tiếng nào đó thuộc những thế hệ trước. Với Nguyễn Trọng Khôi, tôi cũng làm như vậy nhưng trừ vài nét chung chung như được đào tạo ở trường ốc hay năng khiếu, tôi không tìm được gì đậc biệt. Nguyễn Trọng Khôi (NTK) không giống một họa sĩ nào khác.
Hồ Hữu Thủ cùng với Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung của Hội Họa sĩ Trẻ trước 1975 còn sót lại ở Sài Gòn, họ vẫn sung sức lao động nghệ thuật và tranh của họ vẫn thuộc loại đẳng cấp để sưu tập. Họ thuộc về một thế hệ vàng của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bất kể ở Mỹ như Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường… hay còn lại trong nước, còn sống hay đã chết, tranh của nhóm Hội Họa sĩ Trẻ vẫn có những giá trị mang dấu ấn lịch sử. Cho dù tranh của họ rất ít tính thời sự, nhưng cái đẹp được tìm thấy trong tác phẩm của họ lại rất biểu trưng cho tính thời đại mà họ sống. Đó là cái đẹp phía sau của chết chóc, của chiến tranh. Cái đẹp của hòa bình, của sự chan hòa trong vũ trụ. Cái mà con người ngưỡng vọng như ý nghĩa nhân sinh.
Westminster, CA – Học Khu Westminster hân hoan tổ chức mừng lễ tốt nghiệp của các học sinh đầu tiên trong chương trình Song Ngữ Tiếng Việt (VDLI) tiên phong của học khu. Đây là khóa học sinh đầu tiên ra trường và các em sẽ được ghi nhận tại buổi lễ tốt nghiệp đặc biệt được tổ chức vào thứ Ba, ngày 28 tháng Năm, lúc 6:00 giờ chiều tại phòng Gymnasium của Trường Trung Cấp Warner (14171 Newland St, Westminster, CA 92683).
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.