Hôm nay,  

"O Xưa" và Một Buổi Tối Hạnh Phúc

13/02/202314:36:00(Xem: 3347)
_O Xưa_ và một buổi tối hạnh phúc
Nhà văn Nhã Ca và thi sĩ Trần Dạ Từ tại buổi ra mắt tuyển tập truyện ngắn O Xưa.  Hình: Nguyễn Lập Hậu

 

Một trong những điều lôi cuốn tôi đến với buổi ra mắt tuyển tập truyện ngắn "O Xưa" là giọng đọc thơ của nhà văn Nhã Ca, tác giả của "O Xưa". Khi được nghe lại "Tiếng Chuông Thiên Mụ", một trong những bài thơ của thi sĩ Nhã Ca qua giọng đọc của chính tác giả, trái tim tôi ngân nga nhỏ lệ vì giây phút ấy thầm thì bên tai tôi câu hỏi: "Có phải bạn đang hạnh phúc?"

 

Có điều gì đó thật kỳ diệu, khó nói được thành lời, cứ lâng lâng trong lòng tôi khi giọng đọc của thi sĩ Nhã Ca cất lên quyện với tiếng chuông hoài niệm đang "thức dậy cùng lịch sử". Khi nhớ lại buổi tối hạnh phúc vừa qua, tôi mơ màng đọc lại những câu sau cùng trong bài thơ "Tiếng Chuông Thiên Mụ":

 

"Tôi thức dậy rồi chuông ơi chuông hỡi

Tôi thức dậy đây, tôi thức dậy rồi

Thức dậy thực sự rồi

Thức dậy cùng giông bão

Thức dậy cùng tan vỡ

Thức dậy cùng lịch sử

Mẹ hiền ơi thành phố cũ chiều nay

Có tiếng chuông nào rơi như lệ trên tay

Trên mặt nước trên mặt người mặt lộ

Cho con trở về đứng mê sảng ngó."

 

Thi sĩ Nhã Ca bắt đầu làm thơ lúc tôi chưa chào đời. Khi tuyển tập truyện ngắn "O Xưa" của bà được ra mắt tại Quận Cam, tiểu bang California, Hoa Kỳ, vào ngày 10 tháng 2 năm 2023, thì tóc tôi đã ngả chút màu sương gió. Trong chiếc áo dài tha thướt tình quê, nhà văn Nhã Ca dịu dàng đứng cạnh người chồng hiền đức và tài hoa của mình, thi sĩ Trần Dạ Từ, cùng gửi lời tri ân đến tất cả mọi người có mặt trong buổi giới thiệu tác phẩm mới của bà. Đó là một hình ảnh đẹp mãi mãi lung linh trong tâm thức tôi vì chân-thiện-mỹ chẳng bao giờ mất đi ở bất cứ thời đại nào.

 

Tôi hiếu kỳ mua sách qua trang Amazon trước ngày ra mắt vì cái tựa "O Xưa". Đây cũng là tựa đề của truyện ngắn thứ mười ba, và cũng là truyện ngắn sau cùng trong tuyển tập "O Xưa". "O" là từ địa phương mà người miền Trung thường dùng để gọi một người phụ nữ có tuổi. "Xưa" là tên của nhân vật chính có thật mà tác giả hồi tưởng để viết thành truyện:

 

"Tôi viết truyện này để tặng bạn bè cũ, đã có cùng một thời thơ dại ở xóm Chùa, cùng trên "con đường Nam Giao thẳng mà không bằng", như lời nhà thơ Xuân Diệu từng mô tả." Đây là lời kết của truyện ngắn "O Xưa".

Nếu ai đã từng đọc hồi ký "Giải khăn sô cho Huế" của nhà văn Nhã Ca, được in lần đầu tại Sài Gòn vào năm 1969, thì sau khi đọc tuyển tập truyện ngắn "O Xưa", được in lần đầu tại Hoa Kỳ vào năm 2022, sẽ cảm nhận được điều giản dị đáng quý trọng từ những tác phẩm của nhà văn nữ có biệt tài làm thơ hay như viết văn. Bà nghĩ thật, viết thật, và khẳng khái để lại sự chân thành trong lòng người đọc dù đó là bài thơ thuở đầu đời, hồi ký về một giai đoạn tan thương của đất nước, hay truyện ngắn để tặng bằng hữu cùng trang lứa.

 

Trải qua ngần ấy năm trời lênh đênh theo mệnh nước thăng trầm, bà vẫn gìn giữ được tâm hồn dạt dào tình cảm, tấm lòng nhiều thương mến và khí phách trong sáng của một người cầm bút giàu lòng can đảm.

 

Tôi được biết chương trình thơ nhạc đón mừng thêm một đứa con tình thần của nhà văn Nhã Ca đã được thâu hình và sẽ được trình chiếu trên YouTube trong tương lai. Đây không chỉ là niềm vui của những độc giả yêu quý bà mà còn là nỗi mừng cho những người đọc ở thế hệ chưa được sanh ra vào thời bà bắt đầu sáng tác.

 

Tôi tin, nếu là người Việt Nam, hiểu được tiếng Việt phổ thông, thì độc giả dù có sống ở phương trời nào, trong thể chế nào, cũng sẽ mỉm cười khi một lần đọc tiếng Việt của Nhã Ca:

 

"Khi những nàng tiên từ bỏ trần gian

Em là nàng tiên ở lại yêu anh."

(trích "Đêm Xuân" của Nhã Ca)

 

Khi bài hát "Bài Nhã Ca Thứ Nhất", do cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của thi sĩ Nhã Ca, được Khánh Ly cất lên tại buổi ra mắt sách Nhã Ca, tình yêu đậm sâu ngày nào trong tôi, tưởng đã nhạt nhòa như bóng nắng lịm tắt ban chiều, bỗng chốc dâng đầy nơi khoé mắt theo từng câu, từng chữ của Nhã Ca:

 

"Tôi làm con gái

Một lần yêu người

Một lần mãi mãi

Bao giờ cho nguôi

 

Tôi làm con gái

Bao nhiêu tuổi đời

Bấy lần thơ dại

Buồn không ai hay."

(trích "Bài Nhã Ca Thứ Nhất" của Nhã Ca)

 

Vì "một lần mãi mãi", tôi xin được tỏ bày lòng biết ơn đối với nhà văn Nhã Ca và những người cầm bút biết nâng niu bảo bọc chân-thiện-mỹ cho nhân loại như bà. Vì những tác phẩm của họ, sẽ có thêm những niềm hạnh phúc tiếp theo cho người đọc.

 

Là một trong những người đến dự buổi ra mắt "Tuyển tập truyện ngắn O Xưa” của nhà văn Nhã Ca, tôi thành tâm cảm ơn các cô chú, anh chị và các bạn đã tham gia tổ chức và đóng góp công sức để thực hiện một chương trình nghệ thuật công phu và ý nghĩa.

 

Nguyên Thái

(California, ngày 12 tháng 2, năm 2023)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.