Mậu Thân

03/02/202300:00:00(Xem: 1176)
Mau-Than
Phan Nhật Nam tại Lễ Tưởng Niệm 40 Năm Mậu Thân tại Việt Báo Gallery, 2008

 

Chúng giết người vào buổi sớm mai

Sáng Mồng Hai, ngày Tết

Chúng giết người không ghê tay,

không giấu mặt.

Những hàng xóm, phố xưa quen biết lâu dài,

chung tộc họ, tính danh, gia cảnh

Chúng giết người bởi quyết tâm định sẵn

"Đường vinh quang xây xác quân thù

Lềnh loang màu cờ thẫm máu. (1)

 

Chúng giết trẻ thơ

giữa sân trường, nơi lớp học.

Chúng giết mẹ thương khó tảo tần lưng nặng,

nuôi con thay chồng đóng đồn,

phận lính khổ Nghĩa Quân.

Chúng giết Thầy ta,

Trưởng Gà Hùng Biện (2)

Dạy kẻ thiếu niên nên Điều Thiện, tròn việc tốt mỗi ngày.

 

Chúng trói siết chặt thân

Chúng đập dập nát đầu

Bác Sĩ hiền nhân, lương y từ mẫu

Quy tội danh dạy Đại Học Y Khoa

Quốc tịch phản động Cộng Hòa Liên Bang Đức (3)

Chúng giết người dậy sôi men vọng âm sâu độc

Gọi là "thơ"...

Đêm Giao Thừa,

Bắc Bộ Phủ truyền lệnh tấn công (4)

 

Hãy đốt đuốc lên!

Hãy đốt đuốc lên!

Đào xuống huyệt nông bốn mươi năm xưa lấp vội

Tìm kiếm sọ đầu con vỡ tung lưỡi búa!

Hãy đốt đuốc lên!

Hãy đốt đuốc lên!

Vét suối, phá rừng

Vuốt xếp gọn lọn tóc em tuổi hai-mươi chôn sống

 

Sợi xanh biếc thảm thiết mọc dài

(dưới lường sâu ngàn dép lốp dậm chân nén chặt)

Vẫy vùng, bập bùng, dẫy dụa...

Đòi được thở

Đòi được sống

Em ơi!

 

Mậu Tuất năm nao giỗ ngõ Âm Hồn (5)

Mậu Thân ngày nầy linh, vong thất lạc

Đối mặt chết, bé sợ rung nín khóc

Mẹ che con hứng nhát cuốc hờn oan

Âm cắm sâu thịt người

Dội tầng tầng mạch đất

Xuyên suốt cõi âm ty

Rúng động mười cửa ngục

 

Hồn người chết oan không biết đường về (6)

Đất lưu vong nhớ đuốc chiêu hồn

"Mỗi lần hoàng hôn,

ta đốt lửa người ta tới trước" (7)

Hồn hỡi hồn..

Hồn uất hận nơi đâu!

 

Tại sao chúng giết người?

Tai sao chúng đành đoạn giết Con Người?

Em em ơi và Huế Huế ơi!

 

Phan Nhật Nam

 

Thơ viết ngày 29 tháng Ba, 2008

Đọc tại Lễ Tưởng Niệm 40 Năm Mậu Thân

Với Giải Khăn Sô Cho Huế - Nhã Ca

 

 

(1) Bài hát Tiến Quân của cộng sản Hà Nội

(2) Trưởng Trần Điền, Ủy Viên Trung Ương Hội Hướng Đạo Việt Nam

(3) Các Bác Sĩ Alterkoster, Discher, và Krainick người Tây Đức

(4) "Thơ Chúc Tết" của HCM đêm Giao Thừa Mậu Thân là lệnh tấn công.

(5) Ngõ Âm Hồn, Thành Nội Huế, miếu cúng vong linh

    trong biến cố Thất Thủ Kinh Đô, 1918

(6) Lời Nhã Ca kể trong bài nói chuyện về "Sự Thật Mậu Thân".

(7) Thơ Thanh Tâm Tuyền

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
Gió gỡ bóng tối rừng thông./ Sáng trăng lang bạt theo dòng lân tinh./ Suốt ngày đuổi bắt ái tình./ Sương mù nhảy múa bóng hình yêu đương./ Hải âu lạc cánh tây phương./ Cao, cao, ngọn nến dễ thường ngôi sao.
Đó là câu kết một bài thơ của nhà thơ Iya Kiva, là một trong nhiều nhà thơ trẻ Ukraine hiện nay. Bà đã dùng câu thơ “Tháng hai. Lấy mực ra và khóc” của thi hào Nga Boris Pasternak (February. Get ink and weep!) để làm tựa đề cho ba bài thơ của bà. Cùng với các nhà thơ Ukraine khác như, Taras Shevchenko, Pavlo Vyshebaba, Oksana Zabuzhko, chúng ta thấm thía hơn thân phận dân tộc Ukraine, máu và nước mắt họ làm cháy bỏng trái tim thế giới.
Từ những ý nghĩa của bút hiệu Nhã Ca, tôi có thể viết ra một đoạn bói số mệnh nhà thơ:“Nhã Ca: tuy là một loài cỏ dại, nhưng có tiếng thơ thanh thoát tao nhã bên ngoài, bên trong chứa đầy nghịch ngợm, khác thường. Trải qua cuộc sống thăng trầm, tiếng thơ trở thành tiếng ho, tiếng nôn mửa, rồi tiếng thơ đó, về chiều, lắng đọng thành âm điệu cà sa.” Tác phẩm “Nhã Ca, Thơ” toàn tập cho phép tôi có cái nhìn tổng thể và cũng trả lời được nỗi niềm thắc mắc của cậu học trò mới lớn, khi đọc bài thơ “Vết Thẹo.”Từ tuổi thiếu niên vươn lên tuổi thanh niên, ngoài trừ thân xác nẩy nở, trí tuệ cũng gia tăng tò mò và tưởng tượng. Hầu hết, tò mò tưởng tượng lúc đó, hướng về phụ nữ, đối với tôi là một nhân vật thần bí. Khi vô tình đọc được bài thơ “Vết Thẹo”, tôi vô cùng sửng sốt. Tôi sống tự do trong thân thể mình / Nghe vết thẹo lớn dần và mọc rễ.” Đọc lên, nghe vừa lạ lùng, vừa khiêu khích, vừa bí mật.
Một sáng mùa Xuân ngập ánh hồng, / Một cung đàn ấm khắp Tây, Đông. / Một rừng thông điểm trời mây biếc, / Một vũng vàng tô biển nước trong. / Một khối bao la hoa lá trổ, / Một bầu bát ngát sắc hương nồng. / Một tia nắng đẹp soi muôn cõi / Một chữ là mang một tấc lòng.
Thưa người nước mắt bình minh/ Cái trong veo để phục sinh lại đời / Thưa người những bước rong chơi / Đưa nhau ngàn dặm nụ cười tung tăng / Sóng cao vực thẳm thưa rằng / Chân con kiến bé cứ lằng lặng đi / Mùa nào hút cánh thiên di /Qua sông núi biếc. Sợ gì nắng mưa
Trong vũ điệu day dứt của hoang mạc gió, lữ khách dừng lại, gõ cửa. Căn nhà trống mùa đông. Bàn tay lạnh quẹt một que diêm, nhen lên nỗi buồn, thảng thốt những ước mơ ngày cũ theo tro bụi bay lên, buồn bã như những lời em sắp nói, như ánh lửa lụi tàn, như tuổi thơ đi qua… Có tiếng chuông xa đâu vọng về, đơm hoa trong bóng tối lời nguyện cầu, lữ khách cảm thấy móng vuốt của băng giá tan ra bởi niềm khát khao cháy bỏng… Tuyết rơi trên ô cửa sổ, lấp lánh một nỗi chờ.
Khi mặt trời bỏ đi / tuyết đầu mùa tìm đến / những cánh tay màu trắng / cầm trái tim trẻ em
Một chút gì gợn lên nơi mùi cà phê sáng, nơi tách trà nhâm nhi buổi xế chiều, nơi ly vang đỏ nồng đêm tối, làm cồn cào nhớ đến câu thơ đã đọc từ lâu lắm, thơ xưa chăng, nhưng sao cái rung động hôm nay về nó vẫn làm ta xao xuyến đến vậy.
Mùa thu dẫu vừa khảy đôi ba nhịp vàng trên tàn cây. Mùa thu dẫu đang đốt hết mình trên hàng cây maple đỏ lá suốt dặm dài. Và mùa thu cho dù cũng vừa khép cánh cửa để ra đi, khép rất nhẹ nhàng như sợ làm thức giấc ai đó đang say ngủ. Tất cả. Những bổng trầm của mùa thu đều rúng động mấy tầng cung bậc cảm xúc của ta. Phiến lá vàng óng kia ẩn mật điều gì. Dấu chân vàng ố chiếc lá cuối thu như thể là những dấu chân cuối cùng để – nhẹ hẫng về mai sau – Ngọn gió của mùa thu ly tan nào vẫn thảng thốt trong nỗi chờ đợi. Hạt mưa nào xám tro quán phố. Và người ngồi nghe gió mùa thu về như – tiếng thổn thức của thời gian. Bạn ơi, xin lắng lòng trong buổi đêm tịch mịch để nghe cảm xúc bạn hòa âm thế nào với âm vang thu, để biết tác động mãnh liệt của thu – phù vân thôi cũng nát đời như chơi…
Phần lớn các nhà thơ nữ sinh sau cột mốc đau thương 1975, đã dường như nhẹ nhàng hơn, những ám ảnh của chiến tranh, ít bị day dứt hơn vấn đề ý thức hệ. Họ ít nhiều đã hưởng được quả ngọt của nữ quyền, thoát ra khỏi khung cửa chật hẹp của định kiến, góp phần nở rộ một dòng thơ mạnh mẽ, tự tin, khao khát tự do, và bản lĩnh, nói rất thực nhân sinh quan của mình về những mối tương quan trong một thế giới vật chất như hiện nay. Họ cũng rất phóng khoáng thể hiện những cảm xúc đam mê dạt dào nữ tính. Mang những trạng thái có vẻ như đối nghịch nhau như thế khiến dòng thơ của lớp thơ nữ này tỏa sức quyến rũ lạ lẫm, tạo nên một lớp độc giả với cảm thụ thi ca mới mẻ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.