Nhã Ca: Thơ Từ Vết Thẹo.

10/02/202300:00:00(Xem: 2000)

Hình-chính-trang-nhất
Nhà văn Nhã Ca. 2 & 3: Tập thơ Nhã Ca vừa tái bản lần đầu tại Hoa Kỳ, và Tuyển Tập Truyện Ngắn O Xưa, phát hành và ra mắt độc giả hôm nay, thứ Sáu 10 tháng Hai, 2023 tại Westminster, California.

 

Tôi thích đọc thơ. Khi thích thơ của tác giả nào, thì bói thân phận của tác giả đó. Bói theo phương pháp thông diễn, nghĩa là tìm hiểu chiều sâu của thơ qua chiều sâu của tác giả.

Tôi thích thơ Nhã Ca từ thời còn là học sinh trường trung học Lê Quí Đôn, Nha Trang.  Khi nghe bút hiệu Nhã Ca, hầu hết mọi người đều có cảm giác thanh cao, trong sáng, sảng khoái. Nhưng khi bói về hán nôm, thì số mệnh của bút hiệu kia, không phải như vậy. Có một chút tiết lộ trong vài câu thơ của chính tác giả:

“Đời sống ôi buồn như cỏ khô …

Khi về tay nhỏ che trời rét …

Và nỗi tàn phai gõ một lần …”

                                                        “Thanh Xuân.” 

1. Vết Thẹo.

Theo tự của Hán Nôm,  “Nhã” có hai nghĩa đáng quan tâm và “Ca” có bốn nghĩa đáng chú ý.

10-2-2023-_18-pages_-VB_-6



“Nhã” có nghĩa thanh cao, tao nhã; vừa có nghĩa  là một loài cỏ thơm, có người gọi là Bội lan nhược.

Trong khi “Ca” có bốn nghĩa: thứ nhất là ;lời ca, hát ca, trong trường hợp này là thi ca; thứ hai, là nghịch ngợm, ranh mãnh; thứ ba là tiếng ho, tiếng nôn mửa; thứ tư là màu cà sa hoặc áo cà sa.

Trong bài “Khi Hai Mươi Tuổi,” Nhã Ca cũng đã tự nhận mình là loài cỏ. “Khi ngã xuống những tháng ngày mục rã / Tôi cũng không cần ai nhớ ai quên / Người con gái chết đi mang tên loài cỏ dại.”

Từ những ý nghĩa của bút hiệu Nhã Ca, tôi có thể viết ra một đoạn bói số mệnh nhà thơ:

“Nhã Ca: tuy là một loài cỏ dại, nhưng có tiếng thơ thanh thoát tao nhã bên ngoài, bên trong chứa đầy nghịch ngợm, khác thường. Trải qua cuộc sống thăng trầm, tiếng thơ trở thành tiếng ho, tiếng nôn mửa, rồi tiếng thơ đó, về chiều, lắng đọng thành âm điệu cà sa.”

Tác phẩm “Nhã Ca, Thơ” toàn tập cho phép tôi có cái nhìn tổng thể và cũng trả lời được nỗi niềm thắc mắc của cậu học trò mới lớn, khi đọc bài thơ “Vết Thẹo.”

Từ tuổi thiếu niên vươn lên tuổi thanh niên, ngoài trừ thân xác nẩy nở, trí tuệ cũng gia tăng tò mò và tưởng tượng. Hầu hết, tò mò tưởng tượng lúc đó, hướng về phụ nữ, đối với tôi là một nhân vật thần bí. Khi vô tình đọc được bài thơ “Vết Thẹo”, tôi vô cùng sửng sốt.

“Tôi sống tự do trong thân thể mình / Nghe vết thẹo lớn dần và mọc rễ.” Đọc lên, nghe vừa lạ lùng, vừa khiêu khích, vừa bí mật. Sau đây là một nửa phần trên của bài thơ:

Đứa trẻ gái ra đời mang vết thẹo cô đơn

Giữa thời không đói không no không mùi vị

Tôi sống tự do trong thân thể mình

Nghe vết thẹo lớn dần và mọc rễ

 

Tuổi ấu thơ rồi thoắt tuổi thành niên

Ôi đầu mình tay chân thời trẻ dại

Tôi lớn lên quen mùi vị ái tình

Bước một bước qua hết thời con gái

Tám câu thơ tạo ra nhiều tưởng tượng. Lúc đó, tôi cũng không hiểu vì sao Nhã Ca lại có vết thẹo ghê gớm như vậy. Dù không hiểu nhưng vẫn thấy mới lạ và hay. Chất nghịch ngợm hiện hình: “Bước một bước qua hết thời con gái.” Lạ thật? Tôi bước suốt mấy năm vẫn còn thời con trai. Còn cô này bước đi đâu mà vội vàng mất thời con gái? Thành thật mà nói, tận trong thâm tâm, tôi cũng muốn có vết thẹo như vậy, vì tuy mơ hồ nhưng tôi có cảm giác vết thẹo này làm cho thơ hay.

Mãi về sau, tôi mới hiểu, vết thẹo là gì. Mời đọc tám câu tiếp theo của bài thơ;

Đứa trẻ gái ra đời không ai tưởng

Tôi một mình trong vết thẹo thâm sâu

Thân thể rỗng lưu thông từng mảnh vụn

Vết thẹo đau thương lau sậy lút đầu

 

Không nói không nhìn không tất cả

Tôi mang tính tình mình trong suốt từng ấy năm

Từng ấy năm ngó đời như kẻ lạ

Cuộc chiến trong tôi tiếp diễn lạnh lùng.

A, thì ra vết thẹo bên ngoài chỉ là một biểu tượng cho một vết thẹo bên trong. Chúng ta, mỗi người sinh ra đều có vết thẹo. Dù lớn hay nhỏ, sâu hay cạn, vết thẹo sẽ không bao giờ lành. Chúng ta mang thương tích suốt đời vì cuộc chiến trong thâm tâm tiếp tục làm vết thẹo chảy máu. Nếu những nghệ sĩ tự tìm hiểu vết thẹo và khai thác vết thương, tôi tin rằng họ sẽ có những sáng tác có giá trị. Còn những ai không sáng tác, cũng đều có vết thẹo, hiểu được vết thẹo, thì sẽ hiểu được, vì sao chúng ta thường xuyên không hài lòng về cuộc sống của mình.

Vết thẹo đó nhức nhối, phiền hà suốt đời, đã khiến Nhã Ca viết ra những câu thơ sâu sắc nhân sinh quan, những câu thơ đọc lên thấy bùi ngùi cho tác giả và cho chính mình, vì vết thẹo trong lòng chúng ta bắt được sự đồng cảm. Nhã ca viết:

- Bài dạ khúc cắt đôi chiều thứ ba / Chàng có giọng hát buồn như nước chảy / Tôi ở lại gọi trăm lần nhã ca / Tiếng gọi thê lương kéo suốt thời thơ dại.

 

Hai mươi tuổi thôi hết thời con gái / Cành xanh xao với trái mùa thu / Tuổi trẻ bị bỏ quên không bao giờ ngó lại / Tôi với ngày qua biển xám mây mù.

                                              (Nhã Ca Mùa Hạ.)

- Đêm thì dầy và mượt như nhung / Đất thì tối và sần như núi / Đám đông thì đen và dài như sông / Tôi thì trơn và trườn như rắn.

                                                            (Đêm 64.)

- Nuốt miếng cơm mặt mày như xối / Nuốt luôn dùm nhau gáo mồ hôi / Cây ước vọng lòng ta cằn cỗi / Mồ hôi ơi hãy tưới dùm tôi.

                                            (Cơm Trưa Mùa Hạ.)

- Giấc mộng nào làm tôi thức dậy / Và trên không từ mút trời cao / Thả xuống linh hồn này từng vùng lũng tối / Xuyên cánh đồng đốm lửa đầu tiên / báo tin một vì sao tạ thế / Một đám tang cử hành ngoài vô biên / Trên lối đi hoa rắc thành bụi / nhỏ Con chim không kêu / gục đầu / cỏ úa.

                                                         (Chim Nhỏ)

 

2. Tiếng Nôn Mửa.

Triết gia Jean-Paul Sartre nôn mửa vì thất vọng, vì ghê sợ, xã hội và đồng loại. Tiếng thơ thanh cao, nghịch ngợm, và âm u của đời sống, một hôm trở thành tiếng kêu gào, nôn mửa khi Nhã Ca đấu tranh, bệnh vực, bảo vệ cho thân phận đàn bà, cho đàn bà Việt Nam.

Vào thời điểm thơ Nhã Ca đang vùng vẫy, văn hóa Việt đầy dẫy những điều răn của Khổng Tử, xã hội Việt nghiêm túc ‘trọng nam khinh nữ’. Thân phận đàn bà Việt gần như là nô tì tự nguyện. Mặc dù ban đêm, có một số nô tì lên làm chủ, nhưng ban ngày, họ vâng dạ, tam tòng tứ đức, thờ chồng, chờ chồng. Ngay cả bây giờ, một số phụ nữ Việt lớn tuổi vẫn còn là cái bóng của chồng, cái dây leo của đàn ông. Vào thời đoạn đó, không thấy các nghệ sĩ Việt lên tiếng bênh vực quyền phụ nữ. Các nhà thơ thường ca tụng phụ nữ vì bản thân của họ. Ví dụ như nhà thơ Nguyên Sa, ông dẫn đầu trong số các nam thi sĩ ca tụng phụ nữ, nhưng cũng chỉ như ông vua, ban thưởng ân huệ cho hoàng hậu và phi tần, rồi bất ngờ chém đầu lúc nào không ai biết.

Nhã Ca đã thi hành đúng đắn vị trí và vai trò của nghệ sĩ thời đại. Cùng thời với bà, hàng loạt nhà thơ nam nữ trên thế giới đã lên tiếng và hành động chống lại những áp bức nhân quyền, bao gồm quyền phụ nữ. Nhã Ca đã đối đầu với những bất công xã hội, đả phá những vòng rào truyền thống, trả lại cho đàn bà những gì thuộc về đàn bà. Của cesar trả lại cho Cesar. Nhã Ca viết:

-Tại sao ta làm đàn bà

tại sao ta được yêu thương

được phản bội

được bị lừa dối

được sinh con, đẻ cái

tại sao, tại sao?

Ôi, biết bao giờ ta hết hỏi

 

Cái nhà của ta, con cái ta

chăn gối của ta, giấc mơ ta

Hãy để ta, tự ta

Làm đàn bà để sống

Làm đàn bà để chết.

                                             (Làm Đàn Bà)

Trong bài thơ “Đàn Bà Là Mặt Trời,“ Nhã Ca Viết:

- Hỡi các chị, chúng ta đều sáng như mặt trời

tinh khiết như bình minh

vì chúng ta làm ra ái tình

ra hoa lá và sự sống trên trái đất

 

Người đàn bà nào cũng đẹp

Mùa xuân và hoa hồng đều nở vì chúng ta

Chúng ta ban phát ái tình

Cho thiên đàng của chúng ta tươi tốt mãi [...]

 

Chúng ta góp sông biển núi đồi trên thân thể

và rừng trong tóc

Tôi sẽ hỏi mượn các chị

mọi thứ xinh đẹp và nóng bỏng

tôi sẽ gõ những cánh cửa im lặng thật nhẹ

để chàng kinh hoàng nhận ra tôi [...]

 

Tôi sẽ là mặt trời trong lòng chàng

Buổi mai nào cũng lộng lẫy rực rỡ

Tôi sẽ mát như trăng nhưng cũng nóng hơn lửa

hơn cát ở sa mạc

hơn cả cơn giận của trận hồng thủy trong thánh kinh

Bởi tôi là đàn bà

người đàn bà nào cũng xinh đẹp

cũng làm ra sự sống ;...]

 

Cám ơn Thượng Đế đã cho tôi đôi vú

cho tôi da mịn và tóc dài

cho tôi rực rỡ như mặt trời

Để tôi làm ra ái tình và rượu ngọt

tràn trên trái đất [...]

 

3. Tiếng Ho.

Vết thẹo trong hồn, vết thương kinh niên, dĩ nhiên gây thành tâm bệnh bật ra tiếng ho. Ho là một âm thanh bình thường quen thuộc đối với mọi người. Không có ai mà chưa từng ho. Vì vậy, nghe tiếng ho là thông cảm ngay. Bất chợt, nghe tiếng ho là biết có người đang bệnh, đang cưu mang điều gì khó chịu trong thâm tâm.

Thơ Việt Nam từ trước cho đến giờ, ít có ai mang tiếng ho vào trong thơ. Hầu hết thơ Việt từ thời thơ Mới đều yêu chuộng ngôn ngữ mượt mà bóng bẩy, đôi khi hoa hòe, đọc lên vang rền mà không có mấy ý nghĩa. Từ thời thơ Hậu Hiện Đại (1960-1990) và có lẽ đã bắt đầu trước đó, phong trào thế giới sử dụng lời nói hàng ngày để làm thơ được ủng hộ mạnh mẽ, vì tính chân thật, dễ hiểu, và quen thuộc. Tiếng ho là biểu tượng cho lời lẽ bình thường nói lên những tình cảm khi cảm xúc tràn ngập hoặc sự chân thật vượt qua những ngôn từ hoa mỹ.

Sử dụng lời nói bình thường vào thơ, nếu tay nghề không vững, sẽ làm cho bài thơ trở nên bình dân, tiếng giang hồ gọi là thơ “mùi”. Nhưng nếu sử dụng đúng chỗ, đúng lúc, đúng mỹ thuật, thì vô cùng lợi hại. Sẽ gây kinh ngạc và cảm thông giữa người đọc và tác giả.

Đọc toàn tập thơ Nhã Ca, có thể thấy ngay, dấu ấn của nhà thơ nằm trên loại thơ bảy chữ, tám chữ. Những câu thơ hay hầu hết xuất hiện ở câu thơ dài đủ cho một hơi thở. Nhưng rồi, Nhã Ca đã sớm phát hiện cách sử dụng lời nói hàng ngày, đưa vào thơ, tương tựa mời người đọc ăn một bữa tiệc thịnh soạn. Thỏ nấu rượu, vịt Bắc Kinh, Cá suhsi, bỗng dưng khách mời thấy tô canh chua, cá kho tộ. Ngạc nhiên biết bao. Ngon quá trời.

Người đọc sẽ nghe người vợ nói:  

Anh rung cành, em hái trái / Cùng cắn ngập răng / Trái nghiệp chướng đắng nghét, hấp dẫn /

Trúng độc rồi, phải không / Cùng tử thương /

Chết nhé.

 

Người chồng trả lời:

Chết đâu dễ, / Còn bao nhiêu là việc /

Đành chờ. /

 

Người vợ hỏi:

Sống tiếp hả anh?

                                                   (Tháng Giêng.)

“Chết đâu dễ / Sống tiếp hả anh”, đọc đến đây, tôi giật mình. Sống thật là khốn nạn. Muốn sống tiếp cũng phải hỏi. Câu hỏi hết sức bình thường, nhưng rơi vào đoạn thơ này, đã nói lên nỗi niềm thất lạc trong tận cùng thất vọng của một đôi vợ chồng trúng độc vì đi tìm hạnh phúc.

Nhưng tôi còn giật mình hơn nữa, khi đọc bài thơ “Khi Trở Lại Sài Gòn.”

Bây giờ là dĩ vãng vùi lấp

Không còn gì nữa

 

Lời hứa của chàng cùng mùa mưa lũ

Vừa thức dậy

Làm sao quên được

Chuyến xe đêm những bầy sao tình tự

Trời mưa, trời mưa, vẫn trời mưa

Má ơi má ơi

Con còn sống

Năm đó, tôi hẹn với mẹ về ăn tết. Thằng con này ít khi về nhà. Mẹ mừng viết thư chờ đợi. Nhưng rồi, thằng con ham chơi kia, quên mất. Mãi đến trưa 30 tết, mới sực nhớ. Nhảy lên chuyến xe đò tốc hành cuối cùng, chạy về thăm mẹ. Tôi đến nhà gần nửa khuya. Mẹ đã vào giường ngủ. Khi nghe tiếng tôi từ phòng khách, “Con đã về rồi mẹ.” Tôi nghe bà bật khóc từ phòng trong. Khóc vui mừng. Khóc tủi thân. Vừa khóc vừa đi ra ôm tôi. Vết thẹo đó đến nay vẫn còn chảy máu.

Tôi khẳng định rằng, trên cõi đời này, không có bà mẹ nào đang chờ đợi con, không biết nó lưu lạc sống chết ra sao, bỗng một hôm, đột ngột, nghe được tiếng con mình trở về. Tôi tin rằng bà mẹ đó sẽ bật khóc, khóc nhiều hơn mẹ tôi, vì đứa con đó không chỉ trở về mà sống sót trở về.

“Má ơi má

Con còn sống.”

Trong tác phẩm thơ toàn tập, người đọc sẽ nhận ra nhiều câu nói bình thường trở nên rung cảm, xúc động, dưới tài năng của nhà thơ Nhã Ca.

                                                                  
Ngu Yên.

Ghi chú:

Trở về lại với bói tự Hán Nôm, sau khi kết thúc tác phẩm thơ toàn tập, tôi nghĩ, có lẽ, Nhã Ca sẽ dành nhiều thời giờ lắng đọng vào âm thanh của Phật pháp, của màu cà sa. 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cõi thơ Viên Linh là cõi nhân sinh đầy hệ lụy của định mệnh. Định mệnh của một dân tộc điêu linh, lưu lạc. Định mệnh của con người bé nhỏ và yếu ớt trong dòng chảy cuồng lưu của kiếp sống. Định mệnh của tình yêu mệt mỏi, chán chường và bất trắc. Thơ Viên Linh là một biểu hiệu cho Con Người như là một hữu-thể-tại-thế với tất cả những khổ đau và hoan lạc. Ông vừa tạ thế hôm cuối tháng Ba vừa rồi, Việt Báo trân trọng đăng lại một số ít thơ của ông như một nén tâm hương gửi đến người Thi Sĩ quá cố.
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là một vị học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền và đã bị cầm tù trong nhiều năm. Năm 1998, Hòa Thượng được tổ chức Human Rights Watch tặng giải thưởng về nhân quyền Hellmann-Hamett Awards. Hòa Thượng là Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Hòa Thượng thông thạo tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Hòa Thượng được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật, được coi là nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đã soạn thảo quyển Bách Khoa Phật Học Đại Tự Điển.
Đó là tựa đề một bài viết của nhà thơ Phan Tấn Hải, và đây là kết của bài: “Chữ nghĩa không vô ích. Chúng ta trong cõi này hãy rủ nhau làm thơ, đọc thơ, ngâm thơ, in thơ, hát thơ… Nếu chúng ta không đủ sức nương vào thơ để ngộ nhập tri kiến Phật, và nếu chúng ta cũng không có đủ sức mạnh của hát thơ để chữa sản nạn như thời Vua Hùng Vương, ít nhất thơ cũng giúp chúng ta giảm được những đau đớn của trần gian này, kể cả khi buộc phải nghe tới bốn dòng thơ ly biệt tương tự của Cha Rồng và Mẹ Tiên thời lập quốc dân tộc Việt Nam (Ta là giống Rồng / Mình là giống Tiên / Thủy thổ khắc nhau / Không ở cùng được.) Nàng thơ ơi, hãy cứu lấy trần gian này. Hãy biến tất cả những trận mưa bom trên trần gian này thành các trận mưa thơ…” (Phan Tấn Hải, Thơ sẽ chữa lành thế giới
Ta về một cõi tâm không / Vẫn nghe quá khứ ngập trong nắng tàn / Còn yêu một thuở đi hoang / Thu trong đáy mắt sao ngàn nửa khuya / Ta đi dẫm nắng bên đèo / Nghe đau hồn cỏ rủ theo bóng chiều / Nguyên sơ là dáng yêu kiều / Bỗng đâu đảo lộn tịch liêu bến bờ / Còn đây góc núi trơ vơ / Nghìn năm ta mãi đứng chờ đỉnh cao
Nhà văn Jon Fosse vừa đoạt giải Nobel Văn chương về kịch nghệ năm nay, 2023. Ngoài ra, ông cũng nổi tiếng trong lãnh vực thơ và truyện. Tác phẩm của ông được dịch ra khoảng 50 ngôn ngữ. Tìm hiểu về mục đích sáng tác, ông cho biết, “I hope they can find a kind of peace in, or from, my writing.” (Tôi hy vọng người đọc có thể tìm thấy sự bình an trong các tác phẩm của tôi.) Tác phẩm nổi tiếng với nội dung sâu đậm của ông là dãy “Septology”. Đây là một từ vựng mới, có ý nghĩa là một loạt bảy cuốn sách. Có lẽ, Septology phát xuất từ “Heptalogy” mà ví dụ rõ rệt nhất là dãy tác phẩm Harry Potter.
Mùa thứ ba trong năm đã chớm về. Autumn ngoài nghĩa mùa thu, còn mang nghĩa ẩn dụ là chỉ lúc xế chiều, lúc ngày sắp tàn, là mùa mà ban ngày ngắn và dần lạnh hơn. Bên cạnh hình ảnh biểu tượng là mùa lá rụng, lại cũng là mùa phần lớn trái cây được thu hoạch, vì gắn với đời sống thiên nhiên này mà từ rất lâu văn hóa Tây phương đã nhân cách hóa mùa thu là người phụ nữ trẻ đẹp đầy sức sống với mái tóc gắn đầy lá hoa quả chín, là hình ảnh vừa nên thơ vừa chứa đựng sức sống diệu kỳ của mùa gặt hái.
Nhà phê bình văn học Trung Quốc đời nhà Thanh, Viên Mai, có nói, “Làm người không nên có cái tôi, nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Thi hào Tagore cho rằng, “Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ảnh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong”. Cả hai nhận định này đều đề cao cái Tôi-làm-Thơ, và cách biểu hiện những thuộc tính về Tôi ấy như thế nào trên ngôn từ thơ. Có hai yếu tố không ai phủ nhận được là cảm xúc và sáng tạo, chính hai yếu tố này định hình phong cách của nhà thơ. Cảm xúc thực được chuyển tải qua thi ngữ, thi ảnh mới mẻ, cá biệt, thì thơ càng có sắc thái nổi bật để lại dấu ấn riêng trong lòng người đọc, dường như không quá để nói rằng điều này định đoạt sinh mệnh một bài thơ. Thơ chỉ thực sự sống khi nó phản ảnh được bản ngã độc đáo của nhà thơ.
Tháng 7. Mùa hè đang gửi đến đây một sứ giả vô cùng dễ thương. Phượng tím. Đi đâu chợt cũng bị màu tím thơ mộng ấy níu mắt nhìn, làm dịu đi cái nóng chói chan. Bạn đang ở đâu, buổi sáng rực nắng đi chơi hay chiều mệt nhoài sau giờ làm việc, hay tối, hay khuya, hàn huyên bạn thiết, hoặc giả nói chuyện một mình, tất cả những tâm trạng thời gian đó, bạn sẽ tìm thấy được trong Căn phòng chứa đựng mọi khoảnh khắc, nơi các nhà thơ Hoàng Trúc Ly, Duy Thanh, Nguyễn Thùy Song Thanh, Tomas Transtromer, Âu Thị Phục An, Chiêu Anh Nguyễn, Nguyễn thị Khánh Minh, Trương Đình Phượng, Inrasara, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Xuân Thiệp, đọc cho bạn nghe những vần thơ mang âm hưởng chói chan của mặt trời mùa hạ, hoang mạc gai xương rồng, mật ngọt của thiên nhiên…
Một mùa hè, khi chàng vẫn còn trẻ, chàng đứng bên cửa sổ và tự hỏi họ đã đi đâu, những người đàn bà ngồi bên biển, ngắm nhìn, chờ đợi một điều gì đó không bao giờ đến, gió nhẹ phả vào da họ, gửi những lọn tóc xoã ngang môi họ. Họ đã ngã xuống từ mùa nào, họ đã lạc lối từ ý niệm nào của nét yêu kiều? Đã lâu rồi kể từ khi chàng nhìn thấy họ trong vẻ lộng lẫy đơn độc, trĩu nặng trong nỗi biếng lười, dệt nên câu chuyện buồn về niềm hy vọng bị bỏ rơi. Đấy là mùa hè chàng lang thang trong màn đêm kỳ vĩ, trong biển tối, như thể lần đầu tiên, để tự toả ra ánh sáng của chính mình, nhưng những gì chàng toả ra là bóng tối, những gì chàng tìm thấy là đêm.
… Đã bao năm rồi, biết bao nhiêu nước chảy qua cầu, có quá nhiều điều để không thể nào quên. Ngay trong tù đày, những hình ảnh hồi tưởng chưa bao giờ là cuộc duyệt binh vĩ đại đầy màu sắc và ồn ào của ngày Quân Lực; mà luôn luôn là những bước chân diễn hành thầm lặng của một tiểu đội lính vô danh ở ngày giờ cuối cùng của một thành phố trước khi mất tên Sài Gòn. Người chuẩn úy ấy bây giờ ở đâu, trong một trại cải tạo nào, còn sống hay đã chết, số phận những người lính can đảm kỷ luật tới giờ phút chót ấy bây giờ ra sao, cũng không ai được biết. Liệu có thêm được một dòng chữ nào giữa những trang quân sử viết dở dang để nói về cuộc diễn binh kỳ lạ cấp tiểu đội mang biểu tượng hào hùng của quân lực ở ngày giờ cuối cùng trước khi cả toàn quân tan hàng rã ngũ... (Ngô Thế Vinh, trong tập truyện Mặt Trận Sài Gòn.)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.