Hôm nay,  

Ký Ức Mùa Thu

18/10/202013:28:00(Xem: 3410)

                                                                                                                                                                                   blank


Trời cuối tháng Chín, sau vài ngày nắng gắt, khi mặt trời quay trở lại từ Bắc cực và đi ngang qua trên thành phố, cũng bắt đầu mùa táo chín, mùa Thu thật sự trở lại Chicago. Khí lạnh và gió heo may chợt tràn về. Loài di điểu từng hàng lớp lìa bỏ Chicago, lặng lẽ soi mình dưới đáy hồ Michigan, cùng nhau tìm về vùng đất ấm. Hồ Michigan cũng bắt đầu thở sương khói mùa Thu, mặc dầu màu mây chưa kịp ngã sang màu vàng ẩm đục. Hình như người Chicago không mấy ai bận tâm khi hàng phong trên đường phố lưa thưa nhuộm lá vàng. Các cô con gái Chicago vận thêm chiếc áo choàng màu đỏ đủ làm hồng đôi má. Màu mắt và màu tóc của các cô vẫn giữ nguyên màu vàng óng ả, dư âm của mùa Hè vừa đi qua.

Thầm kín cùng với mùa Thu, những mất mát thương đau, những hoài niệm những tình yêu cũ, những bia mộ gối chăn của ngày tháng cũ, thầm lặng trở về cùng gió heo may. Nghe gió mùa Thu thì thầm qua khe cửa, đêm nào thao thức nghe giọt mưa Thu, ai đó có trở nghiêng gối mộng tiếc nuối những mối tình theo những mùa Thu cũ như nước chảy qua cầu...

So với 4 mùa trong một năm, mùa Thu là một nét son trong thi ca, hội họa, âm nhạc, triết học...Với Nguyễn Du, mùa Thu là khoảnh khắc của giã từ "...Người lên ngựa kẻ chia bào-Rừng phong Thu đã nhuốm màu quan san...". Mùa Thu cũng là mùa của nhớ nhớ nhung, của hồi tưởng, của đam mê, của tình yêu réo gọi: "...Thú quê thuần hức bén mùi/Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô- Chạnh lòng nhớ cảnh giang hồ- Một mùa quan tái mấy mùa gió trăng...".(*) Lưu Trong Lư táo bạo hơn và cũng tinh tế hơn khi ông mô tả những nhớ nhung, những mơ ước về chăn gối của một người chinh phu đối với người chinh phụ khi mùa Thu về: "Em không nghe mùa Thu/ Dưới trăng mờ thổn thức/ Em không nghe rạo rực/Hình ảnh kẻ chinh phu/ Trong lòng người cô phụ...".(**) Với bút pháp sâu lắng hơn, nhà thơ Cung Trầm Tưởng đã miêu tả mùa Thu như là mùa của tinh ái: "...Mùa Thu Paris/Tràn dâng đôi mi/Người em gác trọ/Sang anh gót nhỏ thì thầm..."(***)



Đối với nhà hiền triết Tam Nguyên Yên Đỗ, với chiếc thuyền câu bé tẻo teo  thả neo ngoài vòng thời gian, nhập hồn minh vào sương khói mùa Thu: "Ao Thu lạnh lẽo nước trong veo/ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo/ Sóng biếc theo làn hơi gợn tí/ Lá vàng truóc giá sẽ đưa vèo/ Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt/ Ngõ trúc quanh co khách vắng teo/Tựa gối ôm cần lâu chẳng được/ Cá đâu đớp động dưới chân bèo"..

Qua bao nhiêu biến động, thăng trầm của cuộc sống, hôm nay tuổi vừa ngoài 80, tôi vẫn không quên được tiếng hát của Em năm nào đã từng chia sẻ cho nhau với bài hát của Trịnh Công Sơn "Nhìn Những Mùa Thu Đi- Em nghe sầu lên trong nắng-Và lá rụng ngoài song- Nghe tên mình vào quên lãng- Nghe tháng ngày chết trong Thu tàn...". Cám ơn Em đã khắc họa tình Thu vào lòng tôi sâu lắng. Sau gần 50 năm, khi nhớ lại tiếng hát của Em mà nghe hồn mình rướm máu. 

Nhưng tất cả hình ảnh và cảm tác về mùa Thu vừa kể ở trên, cũng chỉ là mùa Thu trong văn chương, thi ca, âm nhạc... Nhưng hình ảnh mùa Thu trong đời thường của mỗi chúng ta hôm nay có lẽ sinh động hơn, thực tế hơn và đôi khi mùa Thu đi cùng nhịp sống lich sử của chúng ta trong thời hiện tại. Sống ở xứ người hơn 40 năm, chúng ta vẫn còn nuối tiếc mùa Thu ở quê nhà. Nhất là khi nhìn thấy lá phong trở màu vàng tại quê người làm sao quên được khoảnh khắc chiếc lá bàng nhuộm đỏ tai quê nhà. Đó cũng là lúc khởi đầu nguồn gió lao xao sóng nước hồ Tây, 5 Cửa Ô tràn ngập gió, nước sông Hồng bắt đầu vẩn đục, dâng lên xanh đậm bờ.  Làm sao quên được đêm mùa Thu Hà Nội ngạt ngào mùi hoa sửa, phố Hà Nội với mái ngói rêu phong với các cô con gái bờ môi đậm đỏ bích đào với áo dài nhung màu huyết dụ, vẫn còn lẫn quẫn đâu đây.

Sáng hôm nay tại Chicago tôi bất chợt gặp chiếc lá ngô đồng bay lạc vào căn gác nhỏ, lòng tôi bâng khuâng lạ thường. Nhớ lại mình, với thân phận của một kẻ luu vong, cũng chỉ là một chiếc lá bay lac vào cùng một căn gác nhỏ. Nhìn ra bầu trời đàn sếu vừa bay đi gọi nhau nghe tha thiết tìm về vùng đất ấm. Riêng tôi còn ngồi lại đây nghe mùa Thu qua../.


Đào Như

[email protected] 

Chicago

Nov 30-2016

Ghi Chú

(*)-Kiều-Nguyễn Du

(**)-Tiếng Thu-Lưu Trong Lư

(***)- Mùa Thu Paris-Cung Trầm Tưởng



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.