Hôm nay,  

10 Bức Tranh Chăn Trâu: Từ Nhận Thức Đến Thực Hành

9/5/202010:50:00(View: 7353)

10 bức tranh chăn trâu


Không hiểu tại sao, ngay từ thời niên thiếu mới tìm hiểu Đạo Phật, Thập Mục Ngưu Đồ ( 10 Bức Tranh Chăn Trâu) đã in sâu vào tâm trí của tôi. Khi tìm đọc sách về Thiền, các bức  ảnh của chú mục đồng chăn dắt con trâu qua từng giai đoạn có sức hút mạnh mẽ với tôi, cho dù không hiểu nhiều về ý nghĩa.  Có lẽ một phần là vì tôi rất thích bài hát  “Em Bé Quê” của nhạc sĩ Phạm Duy, với câu hát quen thuộc: “ Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ…”. Sau này tôi còn nghe câu hát này được sửa lời “Ai bảo đi tu là khổ, đi tu sướng lắm chứ…”. “Chăn trâu” tương đồng với “đi tu”, cũng hay hay!

Một người đàn anh trong Phật học đã từng giải thích cho tôi ý nghĩa của 10 Bức Tranh Chăn Trâu từ 40 năm trước. Đó là tiến trình thấu hiểu được Đạo, hay thấy Phật Tánh của người tu thiền. Nghe anh giải nghĩa, tôi càng thích thú. Một sự say mê hoàn toàn mang tính kiến thức. Thiền Tông thời niên thiếu đối với tôi là một loại triết học cao siêu. Thập Mục Ngưu Đồ là một biểu tượng thật đẹp cho triết lý của Phật Pháp khi nói về thiền. Tôi ngẫm nghĩ, suy tư về nó, nhưng không quan tâm lắm đến việc thực tập ra sao. Có lẽ nó chỉ dành cho các vị thiền sư mà thôi.

Rồi thời gian qua nhanh cùng nhiều vui buồn, đổi thay trong cuộc sống. Ở độ tuổi trung niên trên đất Mỹ, khi phải bắt đầu một giai đoạn cuộc đời mới, tôi có dịp “hội ngộ” cùng 10 Bức Tranh Chăn Trâu qua những lần nghe Thầy Phước Tịnh giảng về chủ đề này. Nhưng lần này thì sự quan tâm của tôi lại được khai mở theo một khía cạnh hoàn toàn mới: thực hành tu tâm. Thầy tôi nhắc đi nhắc lại nhiều lần: thấy được Phật Tánh ngay trong thân này là phần thưởng dành cho mọi Phật tử chịu khó tu tập, thực hành, chứ không phải chỉ dành riêng cho giới tăng ni. Ai có đủ niềm tin, đủ niềm say mê thực tập thì sẽ có lúc nếm được hương vị giải thoát. Khó mà dễ. Vấn đề là phải bắt đầu thực hành. Giống như chỉ khi bắt đầu bước đi thì mới thấy được con đường mở ra đến những chân trời mới ra sao.

Để dễ hình dung, hãy tưởng tượng 10 Bức Tranh Chăn Trâu là một vở kịch có 10 màn. Chỉ có hai nhân vật chính trong vở kịch: chú mục đồng và con trâu, tượng trưng cho người Phật tử và cái Tâm của chính mình. Giống như chú mục đồng từng bước chăn dắt con trâu của mình để nó biết vâng lời, người Phật tử cũng phải rèn luyện khả năng làm cho tâm mình trở nên tĩnh lặng, từ đó có thể thấy được Phật Tánh ngay trong tâm. Thầy tôi đã từng có 10 buổi giảng, mỗi buổi giảng chỉ nói về một bức tranh chăn trâu. Nay tôi cố tóm tắt đơn giản đủ để bắt đầu thực hành về 10  giai đoạn tu tâm này như sau:

  1. Tìm Trâu: Đa số Phật tử đều muốn có được sự bình an bền vững trong tâm hồn, giống như Tâm của Đức Phật. Một số người muốn khi chết được về cõi Niết Bàn, thoát vòng sinh tử luân hồi. Nhưng mà thực sự thì Phật Tâm, hay Niết Bàn nằm ở đâu? Kinh sách dạy rằng Phật ở tại Tâm, Niết Bàn cũng ở tại Tâm. Làm sao để nhận ra điều này? Đây là câu hỏi mà nhiều Phật tử bỏ cả đời ra để đi tìm. 

  2. Thấy Dấu: Nhờ nghe giảng, tìm hiểu Phật pháp, người Phật tử bắt đầu tin rằng cái tâm tĩnh lặng đó có sẵn ở ngay trong tâm. Thỉnh thoảng  thấy nó xuất hiện trong tâm, nhưng thoáng có rồi mất. Nhưng điều này cũng đủ để người Phật tử khởi sự có niềm tin Phật ở ngay trong tâm mình.

  3. Thấy Trâu: Nhờ có thực hành thiền tập, người Phật tử đã nhận ra trạng thái tĩnh lặng , sáng rỡ hiện tiền của tâm mình.  Có lẽ đúng là Niết Bàn, Phật Tánh nằm sẵn ngay tâm rồi! Chỉ có điều, do chưa thực hành thuần thục, đều đặn, cho nên trạng thái tâm tĩnh lặng này không duy trì được lâu.

  4. Được Trâu: càng chú tâm quan sát tâm của mình kỹ hơn, ta càng nhận ra bản chất của tâm là xao động. Tâm người luôn hướng về quá khứ, tương lai, luôn bị chi phối bởi những cảm xúc, vui buồn, ghét thương. Nhưng cũng nhờ quan sát được tâm, ta nhận ra khi những xao động trong tâm lắng xuống, ta thấy được sự tĩnh lặng bao la là cái nền cho mọi dòng suy nghĩ. Giống như hàng tỉ thiên hà dù to lớn đến đâu cũng vận hành trong khoảng không vũ trụ bao la.

  5. Chăn Trâu: Nếu như người chăn trâu dùng roi vọt để thuần hóa con trâu, không để cho trâu đi ăn lúa của người, thì người tu tâm cũng có cách để làm cho tâm mình bớt xao động. Một trong những phương pháp điều tâm là thực hành Chánh Niệm trong giây phút hiện tại. Hãy tập chú tâm, làm người quan sát mà không phán xét mọi sự việc diễn ra trong tâm mình. Dễ nhất là tập theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra một cách tự nhiên. Hơi thở thì ai cũng có, và hơi thở diễn ra ngay trong giây phút hiện tại, cho nên chú tâm quan sát hơi thở là dễ thực hành. Sau khi đã chú tâm vào hơi thở, ta có thể thực hành quan sát những cảm thọ vui, buồn, ghét, thương… diễn ra trong tâm. Điều quan trọng là khi chúng xuất hiện, hãy đơn giản nhận diện chúng mà không cần phán xét, hay bị cuốn vào những ý nghĩ khởi lên từ những cảm thọ này. Sau khi đã quen với việc quan sát cảm thọ, ta bắt đầu tập quan sát những dòng suy nghĩ liên tục khởi lên trong tâm thức. Ta là người quan sát chúng, mà không đồng hóa vào chúng. Đây là một việc khó, nhưng nếu thực hành chuyên cần thì sẽ làm được. Lúc mới thực tập, ta sẽ thấy thường xuyên bị cuốn hút vào những  suy nghĩ sinh khởi lúc nào mà không hay. Không sao cả! Khi nhận ra điều này, hãy bắt đầu chú tâm trở lại vào hơi thở. Sẽ đến lúc ta có thể làm người quan sát một cách dễ dàng hơn, và tâm dễ lắng đọng hơn.

  6. Cỡi trâu về nhà:  Khi đã thực hành chuyên cần, việc giữ cho tâm ở trạng thái tĩnh lặng, sáng tỏ, an trú trong giây phút hiện tại không còn khó khăn nữa. Giống như chú mục đồng cỡi trâu về nhà, ngồi trên lưng trâu thổi sáo thanh bình mà không cần dùng đến roi vọt. Người tu đến giai đoạn này thư thái, thong dong trong mọi hành động một cách tự nhiên.

  7. Quên Trâu Còn Người: Trong giai đoạn đầu điều phục tâm, ta tập làm người “đứng bên ngoài” quan sát tâm, không bị đồng hóa vào những dòng suy nghĩ liên tục của tâm. Khi tâm đã thực sự thuần hóa, thì  không còn cần có ta quan sát nữa mà tâm vẫn giữ được trạng thái tĩnh lặng.  Lúc đó, trong ta chỉ còn một cái tâm an nhiên tự tại duy nhất.

  8. Trâu Người Đều Quên: Hình ảnh một vòng tròn không tượng trưng cho trạng thái tâm tĩnh lặng mà mọi những người thực hành thiền đều hướng tới, với nhiều tên gọi khác nhau: Chân Tâm,  Tâm Phật Bất Động, Tâm Không Sinh Không Diệt, Tâm Niết Bàn... Đến giai đoạn này, cũng cái tâm xao động ngày xưa nay đã trở thành Phật Tâm.

  9. Trở Về Nguồn Cội: Khi Chân Tâm hiện hữu, người tu cũng nhận thấy rằng Phật Tâm chưa hề nằm bên ngoài cái tâm bình thường  của mình trước đây. Giống như một người đi tìm vật báu ở xa xôi nay thấy nó tại ngôi nhà cũ của mình. Phật tại Tâm là như vậy đó.

  10. Thõng Tay Vào Chợ: Cho dù đã đạt được trạng thái Tâm Niết Bàn, người thấy được Đạo vẫn không thoát ly khỏi đời sống thường nhật đầy dẫy những vui, buồn, ghét, thương. Người tu theo hạnh Bồ Tát vẫn bình thản quay lại với cuộc đời, đem lại bình an, hạnh phúc cho người khác, mà không sợ mất đi sự an tĩnh của tâm mình. 

Khi tóm tắt về 10 Bức Tranh Chăn Trâu như trên không có nghĩa là tôi đã trải qua được tất cả giai đoạn này. Thú thật là tôi chỉ mới đi lưng chừng giữa đường. Còn lại là niềm tin vững chắc vào lời hướng dẫn của Thầy, cũng như theo kinh sách. Tuy nhiên, tôi cũng xin chia sẻ một vài trải nghiệm của chính mình trong khi thực hành tu tâm:

  • Để bắt đầu, phải có được niềm tin vững chắc rằng “Phật ở tại Tâm”. Nhiều giai thoại thiền đã chỉ ra rằng nhiều thiền sinh vẫn không dám nhận là Phật ở trong tâm mình. Đa phần Phật tử đặt niềm tin vào những vị Phật ở bên ngoài để có được sự bình an: Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, Phật Di Lặc… Nếu không có được niềm tin vào năng lực tâm của chính mình, sẽ khó mà bỏ thì giờ để ngồi thiền mỗi sáng, thực hành Chánh Niệm hằng ngày. 

  • Vì con đường thiền tập tìm Phật trong Tâm đòi hỏi nhiều nỗ lực cá nhân, cho nên đó là một con đường khá cô độc. Trong những nhóm bạn đạo mà tôi quen biết, số người tu Tịnh Độ chuyên tụng kinh, niệm Phật vẫn nhiều hơn số người thực hành thiền tập. Hãy nhìn vào 10 Bức Tranh Chăn Trâu mà xem: chỉ có mỗi chú mục đồng và con trâu. Khi chăn trâu chẳng thấy có bạn phụ giúp, hay thầy chỉ bảo. Tất cả phải tự mình làm thôi! Những người tu thiền cũng thế. Tâm mình chỉ có mình biết rõ, cho nên phải tự theo dõi và rèn luyện tâm. Thầy hướng dẫn chỉ có thể cho lời khuyên hữu ích nếu ta đã thấy được những diễn biến trong tâm mình do thực hành, có thắc mắc cụ thể.

  • Có một cách để tạo thêm hứng khởi cho tiến trình tu tâm: hãy đặt cho mình những mục tiêu, thành quả dễ đạt trước. Thí dụ như thực hành Chánh Niệm để có được sự tập trung cao trong công việc, để có một sức khỏe tâm linh vững vàng, để có thể làm chủ được cảm xúc… Những lợi ích do thực tập Chánh Niệm đem lại cho đời sống thường nhật rất nhiều, nên đang được áp dụng ngày càng rộng trong xã hội Mỹ.

  • Tu tâm là một tiến trình. Không nên thất vọng khi thấy tâm mình xao động khi thiền tập. Và cũng không nên cố “đi tắt”, mới bắt đầu thực hành mà muốn “cưỡi trâu về nhà”, hay muốn thấy ngay vòng tròn không. Hãy bắt đầu thực tập, đừng quá mong cầu. Tâm bình an dần dần sẽ hiển lộ.

Một người tâm xao động, đầy cảm xúc như tôi mà cũng đã bắt đầu, và cũng đã đi đến đâu đó giữa đoạn đường của 10 Bức Tranh Chăn Trâu. Chừng nào thì bạn sẽ bắt đầu? Mời bạn bắt đầu bước đi trên con đường mới, với nhiều niềm hạnh phúc mới lạ đang chờ bạn…

Mời bạn nghe 10 Bài Thiền Ca Chăn Trâu, được sáng tác bởi một người đã từng có được hạnh phúc vì đi trên con đường này:

https://www.youtube.com/watch?v=1D8ILXJDSrM&feature=youtu.be 

Tâm Nhuận Phúc

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.