Các nguyên nhân, người chịu trách nhiệm
và hậu quả của “Đổi mới“ lừa bịp
(Trích trong sách: Việt Nam “Đổi mới”?! Hay: Treo đầu dê, bán thịt chó!)
Âu Dương Thệ
CHƯƠNG KẾT
Khi đọc tới đây các Độc giả đã cùng người viết đi xuyên qua một chặng đường lịch sử hiện đại của đất nước chúng ta suốt trên 32 năm, từ Đại hội 6 (12.1986) tới 2018 - hai năm sau ĐH 12 (1.2016). Hiện đang rất nóng bỏng trong nhiều lãnh vực. Với chiều dài của lịch sử thì trên 30 năm chẳng là bao. Nhưng khoảng thời gian này lại đánh dấu nhiều sự kiện rất quan trọng đáng ghi nhớ cả với VN lẫn thế giới. Loài người bước vào thiên niên kỉ thứ ba. Liên xô và các nước CS Đông Âu sụp đổ. Chiến tranh lạnh chấm dứt sau gần nửa thế kỉ để lại những chiến tranh tàn khốc, hàng trăm triệu người từ Âu sang Á tới Phi châu đã bị hi sinh, những cuộc di cư tị nạn thảm thương của hàng trăm triệu dân trên thế giới; trong đó có những cuộc chiến tranh tàn khốc nhất ở VN và hàng triệu thuyền nhân!
Cùng lúc hai cuộc cách mạng mới đang bùng nổ, tầm vóc và ảnh hưởng nhanh chóng và sâu rộng chưa từng có trong lịch sử loài người. Đó là cuộc Cách mạng Toàn cầu hóa về kinh tế, tài chính và thương mại và cuộc Cách mạng Điện tử Internet. Hai cuộc Cách mạng này đang làm thay đổi kiến trúc và trật tự thế giới và thay đổi cả thái độ và tập quán của con người. Có lẽ nó sẽ có nhiều tác động mạnh hơn cả cuộc Cách mạng Công nghiệp hơn hai thế kỉ trước ở Âu châu. Hai cuộc Cách mạng này xẩy ra tương đối cùng một lúc và đang song hành ảnh hưởng trực tiếp, vũ bão rất sâu rộng tới mọi khu vực của hoàn cầu. Những tác động và ảnh hưởng của nó không chỉ trong kinh tế, tài chính, thương mại mà còn thay đổi cả tập quán, thói quen và thái độ của hàng tỉ người; nói chung cả văn hóa và văn minh của nhân loại. Nó đang tác động mạnh lên cả chính trị, an ninh và trật tự của thế giới, tạo lập những lực lượng và tương quan quốc tế mới, luật chơi mới, làm đảo lộn trật tự cũ; nhiều trật tự cũ từng là nền tảng của trong bang giao quốc tế đang bị thử thách. Từ đó cả nhiều giá trị cũ, nhiều nền văn hóa cũng đang đứng trước những thử thách gắt gao.
Hiện nay ĐCSVN đứng trước những nan giải nhất kể từ khi thành lập 1930; hoặc tan rã, bị nhân dân lật đổ và bị phỉ nhổ của lịch sử, hay nghiêm túc sớm trả lại quyền tự quyết cho nhân dân! Vì đảng và những người lãnh đạo của nó đã không hoàn thành những nhiệm vụ của lịch sử giao phó. Không những thế những người đứng đầu đảng trải qua trên 70 năm và xuyên qua mấy thế hệ độc quyền cai trị cực kì hà khắc và sai lầm còn phản bội những lời thề mang lại hạnh phúc, dân chủ, tự do cho nhân dân và bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước!
Những sai lầm liên tiếp và cực kì nguy hiểm của đảng này qua nhiều giai đoạn đã xô đẩy VN rơi vào hoàn cảnh cực kì nguy hiểm: Kinh tế kiệt quệ và lệ thuộc bên ngoài; những kẻ cầm quyền tham nhũng và tha hóa cùng cực, thẳng tay đàn áp nhân dân. Nội lực bị cạn kiệt và phân hóa nên đang bị tân đế quốc TQ sỏ mũi và lấn chiếm biển- đảo và đe dọa độc lập!
Tình hình cực kì sôi bỏng này đang gợi lên cho mỗi người chúng ta bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu vấn đề, nhiều giải đáp còn bỏ ngỏ. Nó gợi lên trí óc mỗi người những câu hỏi rất nhức nhối và thẳng thắn: Tại sao đất nước chúng ta suốt trên 70 năm -đặc biệt trên 30 năm qua- lại đã diễn ra rất tồi tệ và kinh hoàng đến như thế, mà lại không thể khác? Nó chất vấn lương tâm mỗi người, cho cả những đảng viên CS còn lương tri. Vì đâu nhân dân ta mọi thành phần đã đóng góp biết bao nhiêu sức lực, tiền bạc, thời gian; bao nhiêu triệu người đã bị hi sinh xuyên qua nhiều thế hệ, nhưng đất nước ta lại đến nông nỗi như ngày hôm nay, thua kém hầu hết các nước trong khu vực trong nhiều lãnh vực, đang bị đế quốc phương Bắc đe dọa nghiêm trọng và nhân dân đang bị tước đoạt các quyền tự do dân chủ căn bản nhất?
Xuyên qua 7 ĐH, trải qua 5 đời TBT, dưới chiêu bài “đổi mới” những người cầm đầu chế độ toàn trị đã thả cửa khai thác các tài nguyên của đất nước, huy động toàn bộ sức lực và của cải của nhân dân, đã thề thốt là đưa VN trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020, dân chủ và văn minh. Nhưng sau hơn 30 năm VN vẫn là nước tụt hậu và lạc hậu về nhiều mặt so với ngay cả nhiều nước trong khu vực. Mấy chục triệu nông dân bị bỏ rơi, hằng ngày vẫn phải vật lộn canh tác phần lớn theo lối lỗi thời, con trâu đi trước cái cày theo sau như các thế kỉ trước. Mấy triệu công nhân chỉ làm thuê theo lối gia công và bị bóc lột lao động trong các công ti FDI; trong khi ấy các chủ nhân đầu tư nước ngoài lại được ưu đãi đủ thứ và tự do chuyển hàng tỉ USD về mẫu quốc. Tư doanh VN bị bỏ rơi, bị bạc đãi; bị thòng cổ vào hai tròng: Các DNNN đè nén và các công ti FDI chèn ép. Trí thức và chuyên viên không được trọng dụng, không được công khai tranh biện; người dân không được quyền mở miệng, nhân quyền bị chà đạp thô bạo…!!! Như vậy công nghiệp hiện đại ở đâu? Dân chủ và văn minh ở đâu?
Trong khi ấy các tập đoàn và tổng công ti nhà nước đang được nuông chiều, làm ăn thua lỗ hàng cả triệu tỉ đồng. Bọn quan đỏ cấu kết công khai với các đại gia lập thành các nhóm lợi ích ngay từ giai đoạn soạn thảo chính sách để tham nhũng, xà xẻo công quĩ…Nay đất nước chúng ta còn đứng trước cảnh các hải đảo bị thôn tính, tài nguyên bị xâm lấn, ngày càng lệ thuộc kinh tế, tư tưởng, chính trị và ngoại giao vào TQ. Các tầng lớp nhân dân từ nông dân, công nhân, thanh niên, trí thức… và cả những đảng viên tiến bộ còn biết quí lòng tự trọng đứng lên tố cáo độc tài tham nhũng và luồn cúi BK đều bị các bộ máy Công an, Tuyên giáo đàn áp thô bạo, giam giữ, tra tấn và chụp mũ rất trắng trợn!
Trong khi ấy, cũng chỉ trong khoảng thời gian trên 30 năm nhiều nước trong khu vực cùng có điểm xuất phát như VN, nhưng nay đã trở thành những quốc gia có trình độ công nghiệp tiên tiến, người dân có đời sống rất cao, nhân phẩm được tôn trọng, mọi công dân có quyền hành xử các quyền dân chủ tự do. Đó là Nam Hàn và Đài loan…
Tập sách này đã tuân theo các chặng đường chính trong công tác nghiên cứu khoa học; đó là mổ xẻ, phân tích, giải thích, cắt nghĩa và đánh giá các sự kiện và tình hình, chính sách và kết quả mà chế độ toàn trị CSVN từ ĐH 6 (1986) tới ĐH 12 (2016) đã chủ trương và thực hiện. Xuyên qua 7 ĐH với tiêu đề “đối mới” được coi như khẩu hiệu trung tâm, sợi chỉ đỏ trải qua 5 đời TBT Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng. Nội dung của sách này xuyên qua 11 Chương, tập trung vào năm câu hỏi trung tâm và tìm giải đáp cho những câu hỏi này:
1.Tại sao phải đổi mới?
2. Đổi mới đã diễn ra như thế nào, có đổi mới thực không?
3. Hậu quả của những chủ trương và hành động này cho ĐCS như thế nào
và đối với nhân dân và đất nước ra làm sao?
4. Viễn tượng cho ĐCS và đất nước như thế nào?
5. Làm sao để tương lai nằm trong tầm tay của chúng ta?
- I. Chế độ không thay đổi gì cả từ mục tiêu đến cơ chế
Vào năm khởi đầu, tức 1986, chế độ toàn trị đứng bên bờ vực thẳm cả trong nước lẫn với quốc tế. Trong nước nạn đói trầm trọng nhất kể từ sau trận đói 1945, nạn lạm phát phi mã lên tới 700-800%. Trong khi ấy, đối với bên ngoài chế độ toàn trị phải đương đầu với hai cuộc chiến ở phía Tây nam, tại Campuchia và tại biên giới phía Bắc với “đồng chí” phương Bắc đã từng bao năm răng hở môi lạnh! Cùng lúc VN bị Mĩ và phương Tây cấm vận kinh tế, phong tỏa ngoại giao vì việc chiếm đóng Campuchia. Nguy hiểm nhất cho chế độ toàn trị ở VN khi ấy là các nước Đông Âu đang từ bỏ chế độ toàn trị chuyển sang DCĐN và Liên xô, cái nôi và từng là thành trì không có gì phá hủy được và đồng minh chính của CSVN, lại đang tự tan rã! Vì thế Nguyễn Văn Linh và một số người cầm đầu chế độ khi ấy đã phải nhìn nhận chế độ toàn trị đang rơi vào hoàn cảnh sợi chỉ treo ngàn cân, cho nên đã long trọng thề thốt phải “thay đổi hay là chết”!
Các cụm từ “đổi mới”, “dân làm chủ”, “đảng là đầy tớ”, “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”… luôn luôn thoát ra từ cửa miệng những người cầm đầu toàn trị. Nhưng nay hơn ba thập niên sau, chế độ độc tài toàn trị vẫn còn đó với tất cả một hệ thống cai trị cực kì hà khắc hoàn toàn giống như cũ. Chế độ độc đảng phải được duy trì bằng mọi giá. Vì thế Điều 4 Hiến pháp qui định sự độc quyền tuyệt đối của ĐCS vẫn nằm đó. Chính CTN Nguyễn Minh Triết đã bộc lộ ý đồ đen tối và cũng là sự lo sợ của họ “Bỏ Điều 4 Hiến pháp là tự sát“!
Cũng chính vì thế, trong chính trị, kinh tế, pháp luật và văn hóa đạo đức đều phải giữ cái đuôi XHCN do ĐCS chỉ huy trực tiếp và toàn diện: Như với “Dân chủ XHCN” trong chính trị, ĐCS là đầu tầu, chỉ huy trực tiếp và toàn diện CP, QH, Quân đội, Công an và Mặt trận. Thực hiện mô hình “Kinh tế Thị trường định hướng XHCN“ (KTTT ĐHXHCN), trong thực tế là ĐCS nắm toàn bộ các huyết mạch kinh tế, xuyên qua các tập đoàn và tổng công ti nhà nước, chi phối toàn bộ nền kinh tế. “Pháp chế XHCN“ vẫn là nền tảng trong quan hệ như thời phong kiến giữa nhà cầm quyền và nhân dân; với luật pháp, tòa án và thẩm phán xử theo cách nào cũng được, theo tiêu chuẩn tắm từ vai trở xuống và bắt con tép thả con cá sộp. Đất đai trước sau vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước XHCN, ở đây là độc quyền của đảng; trong thực tế nằm trong tay của những cán bộ có quyền lực và cực kì tham lam ở trung ương và địa phương, dựng lên các dự án đủ thứ, đủ loại để lợi dụng chia chác làm sở hữu riêng và buôn bán ruộng đất và địa ốc. Trong văn hóa giáo dục, thực hiện “Đạo đức cách mạng XHCN”, nên từ Tổ quốc là trên hết, từng là giá trị cao quí chung của mọi người Việt xuyên qua thời gian mấy ngàn năm lịch sử của dân tộc, nay đã biến chứng đổi dạng thành đảng trước nước sau, “Mừng đảng, mừng lãnh tụ, mừng xuân!” Và nay cả xã hội đang bị đồng tiền và quyền lực bất chính của các nhóm lợi ích chỉ huy theo tiêu chí “Nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ, bét trí tuệ”!
Chế độ toàn trị vẫn kiểm soát toàn bộ và cực kì nghiêm khắc đời sống tư tưởng, văn hóa và tôn giáo. Chủ nghĩa Marx-Lenin đã bị ném vào thùng rác ở cựu Liên xô và Đông Âu, nhưng vẫn chiếm độc quyền ở VN. Nhiều tư tưởng và văn minh tiến bộ trên thế giới vẫn bị chụp mũ, kết án là phản động, đế quốc. Trong khi ấy lại cúi đầu trước TQ, một đế quốc đang ngóc đầu lên lại, phải tung hô “16 chữ vàng” và “4 tốt”; mặc dầu BK từ năm này sang năm khác lấn chiếm đảo, cướp tài nguyên và xây pháo đài trên biển Đông, giết hại ngư dân và gia tăng kiểm soát thương mại và kinh tế của VN. Từ sau Hội nghị Thành đô 1990 tại khách sạn Kim ngưu, BK ép VN trở thành con trâu vàng, bắt kéo cày trả nợ!
Nói tóm lại, suốt trên 30 năm gọi là “đổi mới” nhưng mọi chuyện vẫn cũ rích, đúng theo lời than trách và nguyền rủa của dân gian là “nguyễn như vân” và “vũ như cẫn”! Oái oăm và cay đắng thay cho ngay cả những đảng viên cả tin, vẫn tin vào những lời nói đường mật của những người cầm đầu toàn trị là, “đổi mới để cứu Đảng” theo sách lược “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của người sáng lập chế độ. Nhưng thực sự hiện nay, ngày càng nhiều đảng viên đã vỡ mộng và thất vọng cay đắng, vì thấy những người này -từ “Tứ trụ“ sang “Tam trụ“ tới các UVBCT và BBT- chỉ mượn danh nghĩa đảng, nhưng lại chỉ tính toán cực kì ích kỉ, làm sao giúp họ để giữ quyền-tiền nhiều hơn, lâu hơn; chỉ lo thu vén cho bản thân, gia đình, giòng tộc và vây cánh. Lòng tham quyền lực-tiền bạc và thái độ ích kỉ đã làm họ biến chất, tự chuyển biến xấu và cực kì mù quáng; bất chấp những hậu quả rất tai hại và nặng nề mà nhân dân phải gánh vác, đất nước phải đối mặt trước nguy nan, ngay cả đảng cũng đang phân hóa rất trầm trọng, đứng trước nguy cơ tan rã!
Mượn danh nghĩa đổi mới để cứu đảng với những chính sách cực kì sai lầm, thiển cận, bóc ngắn cắn dài trong mọi lãnh vực -từ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục tới ngoại giao quốc phòng- nên sau hơn 30 năm họ đã biến Đảng trở thành một công cụ phục vụ những tham vọng và quyền lợi ích kỉ của vài cá nhân và phe nhóm. Vì thế không chỉ Đảng đã bị biến dạng, biến chất rất sâu sắc theo chiều hướng thoái hóa, chia rẽ rất trầm trọng; mà cả bộ mặt xã hội VN hiện nay đang bộc lộ nhiều điểm không bình thường, rất tồi tệ. Những điểm nổi bật đập vào mắt và làm kinh hoàng là tệ trạng tham nhũng tiền bạc và quyền lực đã ngự trị từ cấp cao nhất là BCT tới cấp thấp nhất là cán bộ và công an ở các phường, xã, thôn! Các nhóm lợi ích đang thực sự thay thế Đảng, biến Đảng chỉ còn là cái hình nộm. Các nhóm lợi ích đang biến chính phủ, quốc hội, quân đội, công an, tòa án thành những công cụ để kinh tài, kinh quyền vô cùng bất chính. Các nhóm lợi ích đang bẻ cong pháp luật, bẻ gẫy kỉ cương xã hội và giẫm nát các giá trị truyền thống tốt của dân tộc ta!
Những người cầm đầu chế độ toàn trị giữ thái độ “kiêu ngạo CS”, đang lợi dụng quyền lực như người cầm súng trong tay, đưa ra những chủ trương cực kì sai lầm, tuyên bố phản khoa học và hoàn toàn trái với thực tiễn, rồi bắt mọi người phải nghe theo những lí luận ngụy biện và giải thích tùy tiện của họ. Chính Nguyễn Phú Trọng người cầm trịch hiện nay đã tự dựng đứng rất hàm hồ tuyên bố hoàn toàn trái với sự thực là, “đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta“! Và “chỉ có CNXH và chủ nghĩa Cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.” Nhưng chính ông đã tự phủ nhận lời khẳng định của chính mình khi xác nhận là, không biết liệu trong thế kỉ này có tiến tới CNXH được không! Cũng vẫn giọng điệu của kẻ cầm súng trong tay, ông Trọng còn cao ngạo và bất chấp sự thực trước sự tụt hậu của đất nước và sự thối nát của chế độ: “Từ thực tế thì thấy là, chúng tôi thực hiện một đảng vẫn là hiệu quả nhất “ và còn hống hách tước quyền tự quyết của nhân dân VN: “Chúng tôi nói là, ở VN chưa thấy sự cần thiết khách quan cần phải có chế độ đa đảng“!!!
Cả Đỗ Mười[1], người tiền nhiệm của Nguyễn Phú Trọng, từng nắm quyền trực tiếp nhiều năm và là “Thái thượng hoàng” dưới thời Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh cũng đã đưa ra những chủ trương giáo điều rất độc đoán, nên đã gây ra nhiều sai lầm nghiêm trọng. Tại ĐH 7 với thái độ cha chú Đỗ Mười đã nhận định rất mù quáng và ăn nói rất lỗ mãng, thiếu văn hóa: “Trong điều kiện nước ta hiện nay không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp các lực lượng phản động, phục thù trong nước và từ nước ngoài trở về hoạt động chống tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ.”[2] Câu nói này đã trở thành mệnh lệnh cho những người kế nhiệm Đỗ Mười, từ Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh tới Nguyễn Phú Trọng hiện nay!
Trong suốt trên 30 năm qua, miệng những người cầm đầu luôn luôn nói tới “đổi mới toàn bộ” cả kinh tế lẫn chính trị. Nhưng trong thực tế họ chỉ làm trò giật gấu vá vai, chụp giật chắp vá đầy mâu thuẫn và sai lầm trong kinh tế; đồng thời dùng mọi thủ đoạn để ngăn cản những thay đổi cực kì cần thiết và cấp bách trong chính trị. Thậm chí họ còn ma lanh lợi dụng uy quyền để vất vào thùng rác hay làm vô hiệu hóa ngay các Nghị quyết của các ĐH và HNTU đã được thông qua, mặc dầu vẫn đòi các đảng viên phải tôn trọng Điều lệ đảng và thực thi nghiêm chỉnh các Nghị quyết của đảng! Như từ khi làm TBT từ năm 2011 Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần có những hành động ngang ngược như vậy.
Tại Đại hội 11 (1.2011) hai phương án đã được đưa ra thảo luận và biểu quyết về sở hữu đất đai. Phương án 1 của phe Nguyễn Phú Trọng đưa ra “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu“ và Phương án 2 của các đảng viên tiến bộ “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp“. Khi đó Phương án 1 chỉ được 472 phiếu đồng ý (34,3%), nhưng Phương án 2 lại được đa số áp đảo với 895 phiếu đồng ý (65,04%). Như vậy chủ trương “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất“ đã bị Đại hội 11 bác bỏ! " [3]
Nhưng tại cuộc họp báo đầu tiên với tư cách tân TBT ngày 19.11.11, Nguyễn Phú Trọng tuy nói là “chấp hành“ quyết định của ĐH, nhưng liền đó lại phủ nhận ngay và dùng lí luận rất ngụy biện để bóp méo, để áp đặt chuyển về cơ chế cũ:
“ĐH biểu quyết như thế nào thì chúng ta phải chấp hành, theo ý chí của toàn đảng, nhưng không làm ảnh hưởng đến chính sách nhất quán của VN là xây dựng cơ sở hạ tầng cho đất nước, duy trì kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. “ [4]
Nhưng ai cũng biết, đi theo định hướng XHCN có nghĩa là, vẫn duy trì “chế độ công hữu“ trong đất đai; mặc dù ông Trọng biết thừa rằng, như thế trái với quyết định của ĐH 11. Vì vậy đến nay nhân dân vẫn bị tước đoạt quyền tư hữu về đất đai, còn các quan đỏ tự do chia chác, buôn bán đất đai để làm giầu!
Do tư duy cực đoan bảo thủ và thái độ cực kì độc tài, nên tại HNTU 10 Khóa 11 đầu tháng 1.2015 lần thứ 2 Nguyễn Phú Trọng lại công khai chống lại quyết định rất quan trọng của TUĐ. Thật vậy, Thông báo HNTU 10 đã minh thị xác nhận: “BCHTUĐ xác định, trong nhiệm kỳ ĐH XII, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới“. Và còn quyết định rõ những nhiệm vụ và giải pháp trong năm tới, đặc biệt nhiệm vụ thứ 12: “Quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn: giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị“.[5]
Như vậy HNTU 10 (Khóa 11) đã đi đến một đồng thuận chung rất rõ ràng là, lần đầu tiên công khai ghi rõ một chủ trương cực kì quan trọng, đó là từ ĐH 12 trở đi phải thực hiện nghiêm túc và triệt để cả “đổi mới chính trị“. Điều này phải hiểu là từ ĐH 12 trở đi phải thay đổi hệ thống chính trị để chuyển từ chế độ độc đảng sang dân chủ đa nguyên. Không ai có thể hiểu cách khác được! Nhưng Thông báo HNTU10 chưa ráo mực thì trong diễn văn bế mạc Nguyễn Phú Trọng đã ngang ngược vội vàng phủ nhận và giải thích hoàn toàn trái ngược quyết định tối quan trọng và sáng suốt của TUĐ:
“Phải nắm vững và khẳng định: Đổi mới chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của Đảng ta, Nhà nước ta“[6]
Đó vẫn là chủ trương “Đổi mới nhưng không đổi mầu”! Như vậy trước sau ông Trọng vẫn cực kì ngoan cố, bằng mọi giá giữ độc quyền cho phe nhóm của ông, sẵn sàng chống lại quyết định chung. Thái độ độc đoán gia trưởng của những người cầm đầu chế độ toàn trị trước đây và hiện nay của Nguyễn Phú Trọng đã bị ngay cả Bùi Quang Vinh, khi ấy còn là UVTU và bộ trưởng Kế hoạch và đầu tư, tố cáo công khai ngay trước ĐH 12 là, 5 năm qua “Đổi mới hệ thống chính trị thì hầu như chưa làm!“[7]
Hành động mới đây nhất Nguyễn Phú Trọng đã tự để lộ bản chất tham quyền vô độ khi ông lợi dụng cơ hội Trần Đại quang mất để thâu tóm luôn chức CTN vào tay mình vào đầu tháng 10.2018. Trần Đại Quang bệnh nặng từ lâu và vừa mới mất ít ngày trước. Ông Trọng đã lợi dụng cơ hội này để bắt HNTU 8 (2-6.10.18) vào ngày 3.10 với 100% cử làm CTN.[8] Mặc dầu trong Hội nghị này chính ông đòi phải thảo luận về “Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên BCT“. Nhưng ý đồ nắm ghế CTN đã được phe Nguyễn Phú Trọng chuẩn bị từ lâu. Ngay buổi sáng ngày 2.10 trước giờ khai mạc của HNTU 8 và một ngày trước khi HNTU làm công việc thông qua, Phó Tổng biên tập TCCS Nhị Lê, là cái loa của ông Trọng, đã hô lớn ủng hộ giải pháp “nhất thể hóa“ hai chức TBT và CTN vào tay NPT là “rất chín muồi! Nếu không nói là, đã chín quá mõm mòm!“ Để biện minh cho việc làm này Nhị Lê gọi đó là để chống việc duy trì hệ thống tổ chức “tình trạng song trùng“ hao tốn ngân sách Nhà nước. Nghĩa là Văn phòng TUĐ và Văn phòng Chủ tịch nước sẽ gộp làm một.[9] Nhưng sau khi NPT được 100% UVTU tham dự cử làm CTN thì ngày hôm sau Lê Quang Vĩnh, Phó chánh Văn phòng TƯ Đảng đã nói ngược lại: “Vấn đề sáp nhập 2 Văn phòng không được đặt ra, Văn phòng Chủ tịch nước và Văn phòng TƯ Đảng vẫn riêng biệt.“ [10] Qua đó họ đã tự làm trò hề dấu đầu hở đuôi!
Trong dịp này ông Trọng còn đóng kịch theo kiểu “em chả, em chả“ phân bua là, “không phải nhất thể hoá, đây là tình huống“.[11] Nguyễn Phú Trọng lại phải đóng kịch như vậy, vì hành động chớp thời cơ để thâu tóm luôn chức CTN vào tay mình nó đi ngược lại hoàn toàn với những tuyên bố từ trước tới nay của chính ông. Tháng 5.2015 ông Trọng đã từng chống lại việc ghép hai chức vụ Đảng và chính quyền, “Bí thư kiêm chủ tịch thì to quá, ai kiểm soát?“.[12] Năm 1995 khi cựu TT Võ Văn Kiệt gởi Thư cho BCT đề nghị bãi bỏ cách tổ chức “Tập trung dân chủ“ trong Đảng vì nó phản dân chủ, chính Nguyễn Phú Trọng đã kết án gay gắt:
“Đảng ta đã khẳng định dứt khoát giữ vững và thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ…Đảng ta cho rằng, thực hiện tập trung dân chủ là vấn đề có tính nguyên tắc của một đảng mác-xít, là một tiêu chí quan trọng để xem đảng có phải là đảng Mác-Lê-nin chân chính hay không. Phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là phủ nhận Đảng từ bản chất; xóa bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ là phá hoại sức mạnh của Đảng từ gốc.“ [13]
Nhưng nay vì thèm khát danh vọng, thấy cái ghế CTN thì chóa mắt, cho nên với việc thu tóm cả hai chức TBT (cầm đầu đảng) và CTN (đứng đầu cả nước) chính ông Trọng đã vứt vào sọt rác nguyên tắc tổ chức lãnh đạo tập thể theo “tập trung dân chủ“ ở ngay cấp cao nhất trong chế độ toàn trị, một việc làm từ sau khi HCM mất (1969) vẫn được duy trì,[14] và chính ông cũng đã hô hoán quyết tâm bảo vệ! Như thế chính ông Trọng đã “phá hoại sức mạnh của Đảng từ gốc.“
Từ bao nhiêu năm qua Nguyễn Phú Trọng vẫn tự vỗ ngực rao giảng đạo đức cho cán bộ các cấp với các chủ trương chống tha hóa quyền lực và quyết “nhốt quyền lực vào trong lồng“. Nhưng điều này chỉ áp dụng cho đối thủ trong đảng. Riêng cho phe cánh và đặc biệt cho chính cá nhân mình thì Nguyễn Phú Trọng lại không ngần ngại dùng mọi thủ đoạn, kể cả phi pháp, để mở rộng quyền lực vô giới hạn; áp đặt cho bằng được để được xếp vào “trường hợp đặc biệt“ để giữ tiếp ghế TBT, mặc dầu đã trên 70 tuổi và vi phạm nghiêm trọng cả Điều lệ đảng và các NQ của các HNTU về những tiêu chuẩn chọn lựa người đứng đầu chế độ. Những hành động cực kì độc tài và nham hiểm này chứng tỏ Nguyễn Phú Trọng như một thủ lãnh Mafia đang thao túng và tham nhũng quyền lực ngày càng bất trị nhất từ trước tới nay! (Xem Chương bẩy và tám).
II. Sử dụng công thức đổi mới cực kì sai lầm làm cho ĐCS đang biến thể thành các nhóm lợi ích của một số người có quyền lực và tiền bạc, đảng viên thất vọng, quay lưng và đang tự diễn biến
Các chủ trương độc tài nói trên và thói kiêu ngạo quyền lực của những người cầm quyền bất chính đang làm sống dậy những tàn tích của các thời phong kiến và thực dân. Những gì mà 100 năm trước HCM -người sáng lập chế độ toàn trị- từng kết án gay gắt lại đang đứng sừng sững ở VN vào đầu Thế kỉ 21 dưới chế độ XHCN! Hãy so sánh chính sách báo chí thời thực dân Pháp và thời Nguyễn Phú Trọng. Đầu Thế kỉ 20 ông Hồ kết án thực dân Pháp đang giết chết quyền tự do báo chí và lập hội : “Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có!”[15] Nhưng hiện nay đầu Thế kỉ 21 Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, đảng phải độc quyền báo chí: “Báo chí là phương tiện thông tin, công cụ tuyên truyền, vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước… dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước” và “không để tư nhân sở hữu báo chí”.[16] Cho tới nay chế độ toàn trị cũng như thực dân trước đây, vẫn cấm không cho nhân dân được lập hội và biểu tình!
Chính sách bóc lột và tệ trạng tham nhũng thời thực dân Pháp rất tồi tệ, nên đầu Thế kỉ 20 chính HCM đã kết án gay gắt chính sách thuộc địa bóc lột nhân dân và khai thác tài nguyên VN của thực dân Pháp chỉ “để làm giàu cho một số cá mập!”[17] Nhưng đầu Thế kỉ 21 số cá mập đỏ lại đang mọc ra như rươi trong chế độ toàn trị do ông Hồ xây dựng lên. Chính Trương Tấn Sang, khi còn là CTN, đã phải nhìn nhận sự tung hoành của bọn cán bộ tham quan như: “Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là ‘chết’ cái đất nước này”.[18]
Các tệ trạng biến nhà công thành nhà ông, đất công thành đất ông, chiếm đất phi trường xây sân golf cho các tướng kinh doanh, các quan đỏ chiếm đất xây các biệt thự, khu nghỉ mát ... Tình trạng cán bộ từ cấp cao trở xuống tham nhũng tài sản công, xà xẻo tiền bạc hàng tỉ Dollar từ các công trình xây dựng đường xá, cầu cống có nguồn vốn từ ODA nổi tiếng trên thế giới. Ở nhiều nước DCĐN từ tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng tới các dân biểu đều phải kê khai tài sản công khai, ai muốn theo dõi đều có thể đọc được trong các công báo điện tử. Nhưng hiện nay tại VN thì không cơ quan nào dám đụng tới. Chính Nguyễn Phú Trọng kiêm TBCĐTUPCTN cũng phải cúi đầu nhìn nhận sự bất lực không thể bắt cán bộ kê khai tài sản, “vấn đề kê khai tài sản cán bộ là vấn đề rất khó, nhạy cảm bởi nó liên quan đến quyền đời tư, quyền bí mật cá nhân”!![19]
Về chính sách kinh tế của thực dân Pháp, đầu thế kỉ trước Hồ Chí Minh vạch tội: “Nếu bọn thực dân Pháp rất vụng về trong việc phát triển nền kinh tế ở thuộc địa, thì họ lại là những tay lão luyện trong nghề đàn áp dã man và trong việc chế tạo ra cái lòng trung thành bắt buộc.”[20] Nhìn vào xã hội VN hiện nay thì sao lại giống nhau một cách lạ lùng đến như thế. Hiện nay trong lãnh vực kinh tế không chỉ vụng về mà phải nói đúng là ngu dốt! Trên 60 năm theo mô hình kinh tế XHCN đã xô đẩy VN thành một nước nghèo đói, tụt hậu, hàng bao nhiêu triệu công nhân chỉ vẫn làm gia công, cái đinh ốc cũng không tự làm được, năng suất lao động chỉ bằng 1/16 của Singapore![21] Trước kia thực dân Pháp bắt người Việt phải trung thành với mẫu quốc, nay ĐCS bắt quân và dân ta phải trung thành với Đảng; từ Nguyễn Phú Trọng đến Nguyễn Xuân Phúc đòi quân đội, công an phải trung thành tuyệt đối với đảng và nhân dân không được có những hành động chống Đảng. Trong dịp kỉ niệm 70 năm thành lập QĐND Nguyễn Phú Trọng đã ra lệnh cực kì sai lầm là, “bất luận trong hoàn cảnh, điều kiện nào cũng phải kiên định nguyên tắc ĐCSVN lãnh đạo QĐND VN tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt.”[22]
Nói tóm lại, một xã hội độc đảng trong tổ chức và độc tôn trong ý thức hệ dẫn tới không có cạnh tranh (cả trong kinh tế, chính trị lẫn văn hóa, khoa học) thì sẽ dẫn tới xuống dốc, tụt hậu. Nhưng một xã hội cạnh tranh không lành mạnh sẽ dẫn tới thối nát, tham nhũng, bất công, cá lớn nuốt cá bé như chế độ tư bản rừng rú hai thế kỉ trước!
VN hiện nay đang rơi vào cả hai đại họa này! Vì phải sống dưới chế độ độc tài toàn trị quá lâu mà lại áp dụng Kinh tế thị trường định hướng XHCN; thả cửa tự do cho các doanh nghiệp nhà nước giành đặc lợi, đặc quyền, xà xẻo từ nguồn ODA lên tới cả gần trăm tỉ USD và đục khoét ngân quĩ quốc gia; chiều đãi các công ti FDI, nhưng lại bỏ rơi các doanh nghiệp nội địa; khinh miệt nông dân, khinh nội trọng ngoại! Trong khi đó các cơ quan pháp luật và kiểm tra trở thành công cụ của những người có quyền lực và toa rập với các quan đỏ đại gia. Các chính sách cực kì mâu thuẫn và sai lầm này đang tự do hoành hành suốt trên 30 năm, nên đang đẻ ra các nhóm lợi ích làm giầu bất chính nhanh qua tham nhũng và bóc lột, đưa tới bất công, tha hóa đạo đức của các tầng lớp cán bộ; gây thất vọng trong hàng ngũ đảng viên và tạo bất bình ngày càng gay gắt trong các tầng lớp nhân dân.
Vì thế ĐCS ngày nay sau hơn ba thập niên treo bảng “đổi mới” theo cách giả hiệu và dối trá treo đầu dê bán thịt chó như hiện nay, cuối cùng chỉ dẫn đến làm lợi và tay sai cho những phe nhóm có quyền lực và tiền bạc. Cho nên nó không còn là ĐCS như thời kì ban đầu. Đại đa số đảng viên CS không còn là người “tiên phong” mà chỉ là những kẻ đi hậu, đang trở thành bọn tham nhũng, hôi của và đàn áp dân! Xã hội VN cũng biến dạng sâu sắc theo chiều hướng cực xấu và đi xuống. Từ “ra ngõ gặp anh hùng” mấy thập niên trước đây, nay đã trở thành ra ngõ chạm trán với công an gian ác và nhìn thấy bọn quan tham nhũng sống vương giả trong các biệt thự, nhưng lại cực kì độc ác với dân và hèn hạ trước đế quốc BK!
***
Nói theo hình tượng, một chính sách có thể ví như môt sản phẩm. Để thành hình một sản phẩm phải trải qua một số khâu công việc chính: người sáng tạo (kiến trúc sư), tư tưởng (ý niệm), các phương tiện cần thiết, các chất liệu sử dụng, cách chế tạo, sản suất và người tiêu dùng. Nếu người sáng tạo có mục tiêu trong sáng, tư tưởng tốt, biết dùng chuyên viên và cân nhắc sử dụng chất liệu, chế tạo ra những sản phẩm thích hợp, giá cả hợp lí thì sẽ được người tiêu dùng ưa thích. Nhưng nếu người sáng tạo có tư tưởng sai, nuôi ý định xấu, dùng người không có khả năng, sử dụng các chất liệu tồi, sản phẩm chỉ bóng nhoáng bề ngoài, thì trước sau người tiêu dùng sẽ khám phá ra và tẩy chay. Món phở VN thường được nhiều người ưa chuộng. Nhưng không phải phở nào cũng được mọi người thích. Có những loại phở không ai thích ăn, vì người nấu dở và pha trộn những thứ không hợp với nhau. Có những đầu bếp giỏi và biết trọng khách hàng; nhưng cũng có những đầu bếp tồi làm ăn thiếu lương tâm, làm ăn không lương thiện. Gần đây một số hãng xe hơi nổi tiếng ở Âu châu và Nhật đã bị phạt nặng và bị tai tiếng lớn, vì các chủ nhân đã vô lương tâm, chỉ ham tiền nên đã gian lận kĩ thuật làm thiệt hại cho người tiêu dùng và gây ô nhiễm môi trường.
Công thức “Đổi mới” của chế độ toàn trị CSVN từ 1986 cũng là một sản phẩm. Tuy nhiên đây là một sản phẩm chính trị, không phải lúc nào cũng nhận ra ngay và rõ ràng như trong một sản phẩm kinh tế, kĩ thuật. Công thức đổi mới từ 1986 bao gồm các lãnh vực chính: Người sáng tạo (ở đây là những người cầm đầu ĐCS độc tài và gian ác) + Lấy tư tưởng Marx-Lenin làm chỉ đạo dù đã bị thực tiễn chứng minh là cực kì sai lầm + Chọn cán bộ trung thành chỉ biết xu nịnh + Các chất liệu kinh tế bao gồm DNNN, FDI, kinh tế tư nhân nội địa, xuất cảng làm trọng tâm; trong đó hành động theo thái độ khinh trong trọng ngoài + Các chất liệu ngoại giao: Tùng phục BK, mở cửa kinh tế với Tây phương trong tư thế “mở cửa nhưng lại sợ ruồi muỗi bay vào!”. Cần lưu ý, thời kì “đổi mới” ở VN diễn ra khi Liên xô sụp đổ, Chiến tranh lạnh chấm dứt và khởi đầu hai cuộc Cách mạng mới có qui mô toàn cầu, đó là toàn cầu hóa kinh tế-tài chính và kỉ nguyên Internet điện tử.
Nếu so sánh với môi trường và hoàn cảnh chính trị giữa hai giai đoạn trước và sau 1986 thì có nhiều khác biệt rất căn bản. Từ một đảng tương đối đồng nhất, thuần nhất cả trong tư tưởng lẫn đời sống, hạt muối cắn đôi cùng nhau chia ngọt xẻ bùi trong tình đồng chí của thời kì chiến tranh và ý thức hệ Marx-Lenin còn là kim chỉ nam dẫn đường. Nhưng sau trên ba thập niên chạy theo “công thức đổi mới” nói trên từ 1986 đến nay, chứa đầy mâu thuẫn và sai lầm từ chủ trương tới thực hiện, khiến cả đảng và xã hội đã biến chất rất nhanh theo chiều hướng đi xuống: Sự giầu sang theo kiểu trọc phú và bất chính của nhiều cán bộ có máu mặt ở các địa phương và nhất là ngay các tướng công an, quân đội, rồi cả các bộ trưởng, ủy viên trung ương, ủy viên bộ chính trị... đang sống rất xa cách và hống hách với các đồng chí và nhân dân. Sa đọa đạo đức và cực kì vô cảm của tầng lớp lãnh đạo hiện nay đã được chính Nguyễn Phú Trọng xác nhận và đã từng than thở, không biết rồi đây đảng này là đảng của ai và các đồng chí ngồi trong lầu xanh có còn nghĩ tới các đồng chí và nhân dân phải ăn canh ôi, gạo mục không![23] Liên xô đã chết và chủ nghĩa Marx-Lenin cũng đã bị chôn vùi, trong đảng chẳng mấy người còn tin. Tình hình “xa Đảng nhạt Đoàn” ngày càng phổ biến trong đảng viên và thanh niên, như Nguyễn Phú Trọng đã phải nhìn nhận.
Trước đây tình đồng chí và chủ nghĩa Marx-Lenin như hai chất keo giữ cho các đảng viên đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nay hai chất keo giữ cho đảng đứng vững đã bị mất. Hiện nay những đồng Dollar xanh còn quyến rũ mạnh hơn tiếng gọi của HCM. Các ghế trong TUĐ, trong bộ Công an và trong các Hội đồng quản trị của các tập toàn và tổng công ti nhà nước là những nơi đang hái ra tiền, hét ra lửa, nên chúng có sức thu hút mạnh như ngựa không cương! Cũng từ đó cán bộ các cấp chỉ biết lo cho bản thân, gia đình và bè cánh; bệnh ghen ghét nhau, giành giật nhau, thanh toán lẫn nhau trở thành công khai và cực kì tàn bạo, cường độ và tốc độ ngày càng bùng nổ. Mâu thuẫn quyền-tiền dẫn tới đối kháng, xung đột và thanh toán lẫn nhau. Trong khi ấy toàn xã hội lại không có những cơ chế và tổ chức độc lập và đủ mạnh để ngăn ngừa và trừng phạt nghiêm minh và công khai. Vì thế tầng lớp cán bộ có quyền và nắm tiền càng trở nên kiêu ngạo, hống hách, tha hóa đạo đức, vô cảm trước những bức xúc của nhân dân, xã hội ngày càng trở nên bất trị.
***
Nếu so sánh mức độ, tốc độ và tầm vóc dính dấp của các cán bộ cấp cao và những thiệt hại gây ra cho xã hội trong các vụ tham nhũng, phí phạm tài sản quốc gia bị phanh phui ra từ vụ Năm Cam (2001), PMU 18 (2005), Vinashin (2010-11) tới PVN (2017-18) thì phải kinh hoàng thấy là, mức tham nhũng và lãng phí trong những năm đầu “đổi mới”chỉ từ vài triệu Mĩ kim, nhưng nay đã bung ra lên tới hàng tỉ Mĩ kim. Từ cách làm ăn theo lối Mafia của một côn đồ Năm Cam bên ngoài, chỉ vài năm sau cách làm ăn Mafia đã chui ngay vào trong các cơ quan của đảng và chính phủ của một số cán bộ cấp cao-trung (vụ PMU 18). Nhưng hiện nay đang lộ diện công khai, các thủ lãnh Mafia lại chính là các UVTU, các bộ trưởng và các ủy viên Bộ chính trị -cấp chóp bu của chế độ toàn trị- như trong các vụ Vinashin và PVN! Tham nhũng và lạm quyền từ phạm vi cá nhân hay vài người, nay đang mở rộng bộc phát trở thành các nhóm lũng đoạn ngay trong các cấp chóp bu BCT, BBT và TUĐ và đi xuống cả các Ban trong đảng, các Bộ trong chính phủ, các ngành quân đội, công an, hải quan, thuế vụ....Một số vụ bị đưa ra ánh sáng gần đây mới chỉ như phần nổi của tảng băng. Tình trạng tham nhũng thối nát cả quyền lực lẫn tiền bạc thực sự trong các cấp, các ngành còn kinh khủng hơn không thể tưởng tượng được!
Đổi mới kinh tế theo công thức: Đảng độc tài + KTTT ĐHXHCN với DNNN làm chủ đạo + Mở cửa với bên ngoài để thu hút ngoại tệ mạnh. Chủ trương này được triển khai vào thực tế qua mô hình với hai thành phần chính là các tập đoàn và tổng công ti nhà nước trở thành những đứa con cưng nắm độc quyền các huyết mạch kinh tế, cùng với sự ưu đãi cho hàng ngàn doanh nghiệp đầu tư nước ngoài FDI. Mô hình kinh tế này do ĐCS độc quyền, dưới sự chỉ huy độc đoán của những cán bộ đầy quyền lực và rất tham lam, nhưng lại không có khả năng chuyên môn.
Dòng chẩy của hàng ngàn tỉ Dollar suốt trên 30 năm vào một cái ao tù gần như đã khô cạn, tạo nên vẩn đục hôi tanh. Vì thế diễn ra tình trạng cá lớn nuốt cá bé, mạnh giết yếu theo luật rừng xanh. Sức mạnh Dollar cùng với tài sản bất chính (nhà cửa và vất đai) sau 30 năm tích lũy đã thẩm thấu vào mọi sinh hoạt trong toàn bộ cấu trúc xã hội của chế độ toàn trị, đẻ ra một số tầng lớp đại gia đỏ, “thượng lưu mới” trong Đảng và ngoài xã hội: Trong Đảng và bộ máy Nhà nước thành hình rất nhanh và tụ tập ngày càng đông những lớp “thượng lưu mới”, gồm cán bộ trong các ban quản trị của các tổng công ti và tập đoàn nhà nước, cấu kết với cán bộ các cơ quan đảng và chính phủ liên quan tới hoạch định các chính sách và có quan hệ trực tiếp với DNNN và FDI. Cả cán bộ các ngành công an, kiểm tra, tòa án, thuế vụ, quan thuế và tuyên giáo cũng bị đồng tiền và quyền lực sai khiến. Thậm chí cả ngành giáo dục cũng bùng nổ bệnh mua bằng cấp giả và ngành y tế cũng phải chìa phong bì cho bác sĩ…!
Theo cách vận hành của bộ máy chuyên chế, nên các Ban trong Đảng, các Bộ trong Chính phủ và MTTQ đều tham dự trực tiếp hay gián tiếp vào guồng máy xin-cho. Bên đi xin thì phải chìa phong bì hối lộ, bên cho thì tự do tham nhũng và đưa ra yêu sách. Mức tham nhũng gia tăng cực mạnh với thời gian, những năm đầu chỉ vài ngàn Dollar, nhưng sau đó lên hàng chục ngàn, trăm ngàn và nay tham nhũng cả hàng chục, hàng trăm triệu Dollar! Với thời gian các cán bộ tham nhũng mở rộng vây cánh thành gia đình trị, phe nhóm riêng, cấu kết với tư sản ngoài đảng và FDI. Dần dần trở thành các lực lượng có thế lực mạnh cả về tiền bạc lẫn số lượng và đang đóng vai trò chủ động trong các quyết định của Đảng, ngay từ trong giai đoạn lập chính sách; đưa tới xung khắc, mâu thuẫn quyền lợi và chống đối lẫn nhau. Các thành phần “thượng lưu đỏ” này đang mua chuộc, giành giật ảnh hưởng trong quân đội và công an -2 chân đứng của chế độ toàn trị khi trước. Các cơ quan tuyên giáo, báo chí, tòa án… cũng biến thành sân sau, chịu sự chi phối mạnh mẽ của họ! Hiện nay nhiều vụ đại án mới như Vũ Nhôm, Mobiphone… đều có sự thông đồng của các thứ trưởng, thượng tướng Công an, các bộ trưởng và nguyên bộ trưởng Thông tin tuyên truyền, tức thủ lãnh ngành Tuyên giáo đã chứng minh bệnh tham nhũng quyền-tiền đã chạy lên tâm-não của chế độ toàn trị. [24]
***
Sức mạnh của quyền-tiền và chạy theo danh vọng không chỉ bẻ gẫy toàn bộ hệ thống pháp luật của chế độ toàn trị, đốt cháy lương tâm của cán bộ cấp cao ngay trong BCT và TUĐ. Từ đó đã dẫn tới cán bộ đảng viên tự diễn biến xấu, thoái hóa đạo đức và cuối cùng làm đảng cũng biến dạng trở thành cái hình nộm cho các nhóm lợi ích. Sự giầu sang rất nhanh nhưng bất chính của một số tầng lớp cán bộ có quyền lực, khiến tâm lí của họ thay đổi, dẫn tới thay đổi bậc thang giá trị trong các tính toán của họ. Từ đó thái độ và cách cư xử cũng thay đổi trong mỗi đảng viên và giữa các đảng viên với nhau…Sự phân hóa ngày càng sâu sắc trong đảng không phải từ cấp dưới mà phát suất bùng nổ ngay từ Bộ chính trị, bộ não của chế độ toàn trị.
Về đại thể, đảng viên đang tự phân hóa thành 4 thành phần khác nhau: Tham nhũng quyền lực, tham nhũng tiền bạc, đứng giữa, xa lánh đảng và chống lãnh đạo. Các Nghị quyết chống “tự diễn biến, tự chuyển biến” và “diễn biến hòa bình” trong đảng, các cuộc phát động tự phê bình và phê bình rầm rộ nhất ngay trong BCT và TUĐ, các cuộc “lấy phiếu tín nhiệm” trong QH và HNTU và các phong trào “chống tham nhũng” dưới thời Nguyễn Phú Trọng là bằng chứng rất rõ ràng và thước đo về sự kình chống lẫn nhau và phân hóa ngày càng nghiêm trọng trong đảng.
Trong khi ấy thành phần chỉ đạo “công thức đổi mới“ lại có năng lực lãnh đạo rất thấp, tư cách rất tồi tệ, không có uy tín nhưng vẫn giữ thói “kiêu ngạo Cộng sản“ và cực kì lạnh lùng, vô cảm trước những bức xúc của nhân dân và nguy cơ của đất nước. Thay vì dựa vào dân, đoàn kết trong BCT, TUĐ và tập trung tâm trí và sức lực vào công cuộc tái thiết đất nước, họ lại chỉ lo lập các phe phái kình chống lẫn nhau! Sự chống đối lẫn nhau bùng nổ diễn ra từ thời Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và tới thời Nguyễn Phú Trọng càng khốc liệt hơn.
Nguyễn Văn Linh khai mào đổi mới, hô hoán “cởi trói” cho các văn nghệ sĩ, nhưng chưa bắn đã run, nên đã bị phe bảo thủ sớm cho về vườn trông gà. Thời Đỗ Mười làm TBT đã xẩy ra những cuộc đấu khẩu về đường lối giữa một bên là phe cực kì giáo điều của Đỗ Mười-Lê Đức Anh và bên kia là TT Võ Văn Kiệt với Thư gởi BCT ngày 9. 8.1995, cùng một số trí thức và chuyên viên thức thời cấp tiến. Thời Lê Khả Phiêu chỉ kéo dài hơn ba năm nhưng đã đưa tới “đảo chính” ngay trong cung đình toàn trị, các “Thái thượng hoàng” Đỗ Mười-Lê Đức Anh vì tham nhũng quyền lực nên đã ép Lê Khả Phiêu phải thoái vị để đặt Nông Đức Mạnh dễ sai bảo vào ghế TBT suốt 10 năm làm bù nhìn.
Từ khi Nguyễn Phú Trọng làm TBT (từ 2011) sự tranh giành quyền lực và tiền bạc ở ngay cơ quan đầu não của chế độ toàn trị, tức BCT, đã bùng nổ cực kì mãnh liệt và tàn bạo suốt trong nhiều năm. Trong đó đỉnh cao tranh chấp của hai phe tham nhũng quyền lực và tham nhũng tiền bạc giữa hai thủ lãnh Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng. Trong vụ Vinashin làm thất thoát cả hàng trăm ngàn tỉ đồng, nhưng vì hai ghế TBT và TT rất béo bở nên hai người này tạm thời thỏa hiệp với nhau trên sự thiệt hại rất lớn ngân quĩ quốc gia do tiền thuế đóng góp của nhân dân. Nhưng liền sau đó cuộc trường chinh kéo dài suốt 5 năm giữa người cầm đầu đảng Nguyễn Phú Trọng và người cầm đầu chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Những cuộc bôi bẩn và thanh toán lẫn nhau kéo dài suốt nhiều năm giữa hai ĐH 11-12 (2011-16). “Đồng chí X” nhiều lần làm nhục “Đồng chí mếu” ngay tại các HNTU làm trò cười cho cả trong đảng lẫn ngoài xã hội. Các “đồng chí” trong BCT chia phe hầm hè thanh toán lẫn nhau thâm độc, giở các thủ đoạn tồi tệ và độc ác “lạnh tanh như máu”. “Đồng chí mếu” giở những thủ đoạn lưu manh và tàn bạo hơn được xếp vào “trường hợp đặc biệt” để lì lợm giữ tiếp ghế TBT; nên “Đồng chí X” thất thế phải trở về để “làm người tử tế”! (Xem Chương sáu và bẩy).
Sau khi hạ được Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng đang ra tay trả thù các đối thủ dưới danh nghĩa chống tham nhũng, chống tự diễn biến…; từ bỏ tù cựu UVBCT Đinh La Thăng tới cách chức một số UVTU. Tuy vậy việc kê khai tài sản công khai minh bạch của cán bộ, công chức cấp cao là biện pháp rất quan trọng được thực hành nghiêm chỉnh ở nhiều nước DCĐN, nhưng dưới chế độ DCXHCN -dân chủ hơn cả ngàn lần các xã hội dân chủ phương Tây- cho tới nay vẫn không thể thực hiện được, mặc dầu đã ban bố bao nhiêu Nghị quyết của các ĐH và HNTU suốt mấy chục năm. Giữa năm 2018 Nguyễn Phú Trọng nhận là người đốt lò thiêu tham nhũng phải thừa nhận bất lực trong việc cực kì quan trọng này: “Vấn đề kê khai tài sản cán bộ là vấn đề rất khó, nhạy cảm bởi nó liên quan đến quyền đời tư, quyền bí mật cá nhân.”[25]
Không bắt được cán bộ dưới quyền kê khai tài sản, nhưng Nguyễn Phú Trọng lại được 100% trong HNTU 8 và 100% trong QH bầu làm Chủ tịch nước chỉ ít ngày sau Trần Đại Quang mất; mặc dầu hành động vội vàng vơ cả ghế CTN cho cá nhân mình là công khai bẻ gẫy nguyên tắc tổ chức “tập trung dân chủ” của ĐCS.[26] Một điều mà chính ông Trọng đã thề thốt phải bảo vệ đến cùng! Những sự kiện trên chứng minh rất rõ ràng là, Nguyễn Phú Trọng vì nuôi tham vọng quyền lực quá cao và quá nhiều, nên phải ra sức chiều chuộng bọn dưới quyền và vì thế, ông đang trở thành trò chơi cho bọn quan đỏ tham nhũng quyền-tiền!
***
Nói tóm lại, những người cầm đầu chế độ toàn trị thực hiện đổi mới theo công thức cực kì sai lầm là: Một đảng độc tài đã thao túng quyền lực quá lâu suốt gần 70 năm, nay lại giành đặc quyền đặc lợi cho các DNNN, đồng thời lại khinh trong trọng ngoài, o bế các công ti đầu tư nước ngoài, nhưng khinh thường giới doanh nhân trong nước. Chính vì thế nên sau hơn 30 năm đã dẫn tới những hậu quả cực kì nguy hiểm cho cả ĐCS lẫn đất nước trong mọi lãnh vực. Đây chính là chính sách đổ dầu (đảng độc tài) vào lửa (tham nhũng qua các DNNN). Vì thế tham nhũng tiền bạc và tham nhũng quyền lực và lãng phí công quĩ đang trở nên bất trị từ các cơ quan trong Đảng và Nhà nước. Nó dẫn tới tình trạng nợ công như cái thùng không đáy. Và hiện nay ĐCS trở thành tay sai của các nhóm lợi ích chỉ lo tranh giành quyền-tiền, sẵn sàng thanh toán lẫn nhau. Toàn bộ nền kinh tế VN ngày càng đi xuống và lệ thuộc bên ngoài, nhất là TQ; xã hội trở thành thối nát, cá lớn nuốt cá bé, quyền-tiền đánh bạt đạo đức và lương tâm!
- III. Các nguyên nhân và hậu quả
Lãnh đạo cá mè một lứa, coi dân là thù, coi địch là bạn, khinh nội trọng ngoại, bị Bắc kinh sỏ mũi, bị FDI lợi dụng. Áp dụng công thức đổi mới sai lầm đưa tới nhân dân bất mãn nên đảng biến thành chế độ công an trị
Tại sao từ suốt trên ba thập kỉ qua các cuộc tranh chấp ở TU ngày càng gia tăng cả về mức độ lẫn cường độ, thậm chí đang trở thành công khai thanh toán và bỏ tù lẫn nhau? Vấn đề này liên quan tới nhiều lãnh vực khác nhau, có liên đới mật thiết với nhau từ trong đảng tới ngoài xã hội ở VN và cục diện thế giới về chính trị, kinh tế và khoa học kĩ thuật. Đó là: 1. Tình trạng cá mè một lứa giữa những người ở TUĐ, đặc biệt ngay trong BCT. 2. Ý thức hệ Marx-Lenin không còn là chất keo. 3. Sự áp dụng các biện pháp chính trị và kinh tế độc tài trong một thế giới mở cửa nên ngày càng trở nên vô hiệu. 4. Ảnh hưởng mạnh mẽ của hai cuộc cách mạng điện tử Internet và toàn cầu hóa về kinh tế-tài chính.
Giữa thập niên 80 của thế kỉ trước nhiều “đại thụ” đã qua đời, hoặc lực bất tòng tâm nên phải về nghỉ. Các “tiểu tướng” cùng lên ngôi làm các “vua tập thể” nên không ai bảo được ai. Tiếp đến là thời kì của một số người ngồi lâu lên lão làng, cá mè một lứa, uy tín không cao, năng lực thấp, tư cách tồi, nhưng lại có nhiều quyền và nắm nhiều tiền hàng trăm tỉ USD từ các nguồn ODA và FDI chia chác bừa bãi cho các tập đoàn và tổng công ti nhà nước. Khi các quan đỏ đang đói mà lại nắm được túi tiền thì như chuột sa vào chĩnh gạo! Thời kì của tham quyền và tham tiền lên ngôi! Vì thế qua thời gian hình thành và tập hợp các thành phần mới ngay trong đảng có quyền lợi mâu thuẫn nhau, tạo ra những khuynh hướng và lực lượng mới; từ đó tương quan lực lượng giữa các phe thay đổi. Nhân dân không tin, nội lực không có, nên họ phải tìm cách liên kết, liên minh với bên ngoài để làm chỗ dựa.
Đỉnh cao nhất của đường lối ngoại giao mù quáng và cực kì sai lầm là khi ấy những người cầm đầu Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười kéo theo cả “Cố vấn” Phạm Văn Đồng sang Thành đô TQ tại “Kim Ngưu tân quán” đầu tháng 9.1990 xin cầu hòa và làm thân phận con trâu vàng kéo cày trả nợ để mong ĐCSTQ trụ được thì ĐCSVN cũng trụ được; cứu đảng là mục tiêu hàng đầu bất kể đến quốc thể và độc lập. Khi ấy Phạm Văn Đồng đã lo lắng than thở, ví những người cầm đầu toàn trị như lữ khách “đi đường không có bản đồ”, không biết đi về đâu mà sức mình lại rất giới hạn, tâm thần rất hoang mang lo sợ! Lần này lại lôi ra bửu bối “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, cúi đầu chịu nhục nhưng không biết các đồng chí phương Bắc có cứu mình không hay đang âm mưu nuốt đảng và biến VN thành châu-quận của nhà Hán trước đây trong việc thực hiện giấc mơ tái phục TQ trở thành một đế quốc mới vĩ đại trong Thế kỉ 21! Từ sau Hội nghị Thành đô, BK liên tiếp gia tăng hành động xâm lấn các hải đảo, biến các đảo trên biển Đông của VN thành những tiền đồn, pháo đài, “hàng không mẫu hạm không thể bị đánh chìm”; từ đó lấn chiếm toàn bộ biển Đông, uy hiếp chủ quyền và đe dọa độc lập của VN. Mỗi lần gặp gỡ các nhà lãnh đạo HK Tập Cận Bình vẫn tìm cách thuyết phục hai bên cùng chia đôi Thái bình dương. “Thái bình dương đủ rộng cho cả Mĩ lẫn TQ!” Hai bên nên cùng chia vùng ảnh hưởng. Rõ ràng là đầu óc đế quốc, tôn thờ chủ nghĩa quốc gia quá khích, mặc dầu vẫn vỗ ngực là CS!
Không những thế, VN ngày càng lệ thuộc kinh tế vào TQ. Mức nhập siêu hàng năm của VN với TQ lên tới trên dưới 30 tỉ USD trong những năm gần đây. Số nhập siêu chính thức có lẽ còn cao hơn nhiều. Cuộc chiến tranh thương mại giữa Trump và Tập Cận Bình sẽ đẩy hàng TQ càng tràn vào VN. Do áp lực áp đảo của BK, nên mới đây Nguyễn Phú Trọng đã phải chấp nhận để đồng Nhân dân tệ chính thức trở thành phương tiện mua bán tự do ở các tỉnh biên giới phía Bắc bắt đầu từ 12.10.18, thời gian mở rộng trên toàn VN có lẽ không còn xa.[27] Như thế cho thấy hiện nay BK không chỉ nắm được cái đầu mà còn đang nắm được cả dạ dầy của VN. Cho nên mỗi lần gặp các người đứng đầu của TQ, từ Nguyễn Văn Linh tới Nguyễn Phú Trọng chỉ biết tung hô “16 chữ vàng” và “bốn tốt”! Ác với dân nhưng lại hèn với giặc xâm lấn, vì thế những người cầm đầu toàn trị cho công an đàn áp các cuộc biểu tình của nhân dân chống xâm lấn của TQ và cho báo chí xuyên tạc! Thái độ luồn cúi trước BK nhưng lại độc ác với dân nên càng làm nhóm cầm đầu mất uy tín và chống đối của mọi thành phần, kể cả các đảng viên tiến bộ.
Sau khi Liên xô sụp đổ họ phải mở cửa với phương Tây. Nhưng họ lại không học những cái hay của các xã hội DCĐN, lại chỉ tính xin viện trợ, vận động đầu tư để cứu chế độ, nhưng thực tình chỉ để cứu quyền lợi và địa vị của họ. Vì thế một mặt tìm cách xoay xở để được cấp nhiều tỉ USD mỗi năm từ các nguồn ODA trong các dự án xây dựng hạ tầng, qua đó các quan đỏ tự do xà xẻo, lãng phí. Để đạt mục tiêu này họ giả vờ thỏa thuận với Mĩ và nhiều nước trong EU lập các Ủy ban theo dõi nhân quyền, họp định kì nói là để thảo luận về tình hình vi phạm tự do tôn giáo và nhân quyền ở VN. Nhưng họ chỉ khất lần khất lượt cho qua, điều cốt cán là nhận được viện trợ để duy trì chế độ toàn trị!
Họ còn giành đặc ân cho các công ti nước ngoài (FDI) đầu tư vào VN để có thêm ngoại tệ quí, bất kể tới hàng triệu công nhân bị bóc lột và biến VN thành bãi rác công nghiệp tàn phá môi trường, cao điểm là thảm họa cá chết dọc suốt 4 tỉnh miền Trung năm 2016 do công ti Formosa (Đài loan) gây ra. Dịp này chính Nguyễn Phú Trọng đã thừa nhận, họ mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài vào lập các xí nghiệp ở VN, nhưng không tính tới việc đổ rác đi đâu! Mặc dầu các chủ trương để các công ti nước ngoài vào đầu tư tại VN đều thất bại. Thay vì có những chính sách thích hợp để các công ti FDI chuyển giao kĩ thuật công nghiệp cho kinh tế nội địa; nhưng trong thực tế chính sách trọng ngoại rất bừa bãi, giành những đặc ân mọi mặt cho FDI đã đẩy các doanh nhân VN và kinh tế tư nhân VN không thể ngóc đầu lên được, đến nỗi không có khả năng làm được cái đinh ốc. Còn công nhân chỉ làm những công việc đơn giản nhất và nhận đồng lương chết đói. Sự sáng suốt và tinh thần trách nhiệm của nhóm cầm đầu toàn trị là như thế!
Khinh nội trọng ngoại là thái độ cực kì sai lầm của những người cầm đầu toàn trị trong việc thực hiện “Công thức đổi mới” suốt trên ba thập kỉ qua. Trong khi cúi đầu trước phương Bắc và nuông chiều các công ti FDI thì họ lại bỏ rơi doanh nhân nội địa, nghi ngờ dân và khinh khi các thành phần chuyên viên, trí thức và thanh niên, đồng thời thẳng tay đàn áp những đảng viên tiến bộ. Tuy phải mở cửa làm ăn với phương Tây, nhưng họ lại rất lo sợ “diễn biến hòa bình”. Ngay từ Hội nghị Đại biểu toàn quốc 1994 họ đã xếp đây là một trong bốn nguy cơ cho chế độ toàn trị. Họ lập các kế hoạch làm sao “mở cửa nhưng không để ruồi muỗi bay vào”! Vì thế lực lượng công an chính thức và bán chính thức, gồm cả những nhóm đội danh du đãng, được gia tăng thường xuyên với quân số cả trên triệu người, với hàng trăm tướng công an, được trang bị các thiết bị kĩ thuật tối tân để theo dõi và đàn áp nhân dân, được nuông chiều và ưu đãi cho cả gia đình. Các lực lượng công an mật vụ đang phủ kín xã hội, biến chế độ toàn trị thành chế độ công an trị, ngày đêm rình rập theo dõi và đàn áp nhân dân!
Mặc dầu vậy vẫn không ngăn chặn được ý chí tranh đấu của nhân dân thuộc mọi các thành phần, đi đầu là thanh niên, trí thức, nông dân, công nhân, văn nghệ sĩ và cả nhiều đảng viên tiến bộ. Những cuộc biểu tình chống lại sự ươn hèn của nhóm cầm đầu toàn trị trước sự bành trướng và xâm lấn của tân đế quốc TQ; chống lại những vụ gây ô nhiễm môi trường của nhiều công ti nước ngoài; ủng hộ các vụ dân oan đi khiếu kiện ruộng đất và tố cáo bọn quan đỏ tham nhũng ngày càng gia tăng và được sự hưởng ứng của nhiều giới, kể cả các đảng viên tiến bộ.
Cao điểm của các cuộc phá rào chính trị độc tài và sai lầm, phá rào công an độc ác là những cuộc biểu tình của hàng ngàn người tố cáo sự xâm lấn của BK trong vụ giàn khoan khủng HD 981 (2014), tố cáo nhà cầm quyền đã để cho Formosa gây ra thảm họa môi trường (2016). Và mới đây (6.18) nhiều cuộc biểu tình của nhiều ngàn người diễn ra cùng lúc ở nhiều thành phố để phản đối các Dự luật Đặc khu Kinh tế và Luật An ninh mạng. Mặc dầu trước sự đe dọa và đàn áp của bạo quyền, nhưng số lượng tham gia ngày càng đông, càng nhiều thành phần, tinh thần đấu tranh và lòng can đảm ngày càng cao trong các cuộc biểu tình với quyết tâm can đảm đấu tranh bất bạo động để phá tan các rào cản của bạo quyền!
Mới đây nhất lại nổ ra phong trào kết án và bỏ đảng của nhiều trí thức và văn nghệ sĩ tên tuổi, sau khi Nguyễn Phú Trọng cao ngạo và phách lối ra lệnh cho bọn dưới quyền kết án GS Chu Hảo, Giám đốc Nhà xuất bản Tri Thức và nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, là “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”” Vì thế ông Chu Hảo đã rút ra khỏi đảng và kết án ĐCS “không còn tính chính danh”. Hàng trăm nhân sĩ, trí thức, cả nhiều đảng viên tên tuổi đã kí tên trong Thư ngỏ ngày 27.10.18 phản đối BCT, cầm đầu là Nguyễn Phú Trọng, đã có những hành động cực kì độc tài.[28] Trong Thư tuyên bố bỏ Đảng ngày 4.11.18 nữ nghệ sĩ Nguyễn Thị Kim Chi đã phản ảnh quan điểm chung của nhiều đảng viên, mặc dầu đã kiên tâm chờ đợi nhưng nay đã thất vọng trước sự độc tài và phản bội của những người cầm đầu chế độ toàn trị hiện nay, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng:
“Nhưng đáp lại thiện chí của chúng tôi là sự đàn áp ngày càng khốc liệt người bất đồng chính kiến; là ý đồ muốn biến nhân dân thành bầy cừu; thù ghét, khủng bố những người dấn thân tranh đấu vì những quyền cơ bản, chính đáng của con người, những giá trị phổ quát của nhân loại; hãm hại những trí thức ưu tú muốn khai trí nhân dân.”
Cuối Thư nữ nghệ sĩ Nguyễn Thị Kim Chi đã thiết tha kêu gọi: “Tôi thành tâm mong mỏi ngày càng có nhiều đảng viên có lương tri, còn tâm huyết với dân, với nước, nhất là thế hệ trẻ, tiếp tục rời bỏ Đảng CSVN, Đoàn Thanh niên CSVN. Vận nước, tương lai dân tộc tùy thuộc mỗi người VN chúng ta.”[29]
***
Chế độ toàn trị để cho các tập đoàn và tổng công ti nhà nước được độc quyền kinh tế trong nhiều lãnh vực, nên đã mở cửa cho bọn quan tham nhũng đủ mọi cấp, mọi ngành, mọi nơi. Vì thế đây là thời kì béo bở cho ngành Công an. Thay vì điều tra công khai, minh bạch và trừng phạt công bằng và nghiêm minh; các cơ quan điều tra của bộ Công an đã trở thành các hang động chứa chấp, bảo vệ và toa rập các vụ tham nhũng cả trong đảng lẫn ngoài đảng. Mức độ dính líu của các cấp công an trong các vụ án tham nhũng nổi tiếng càng gia tăng cùng với thời gian suốt trên ba thập niên qua. Điển hình như trong vụ Mafia Năm Cam chỉ mới có Giám đốc Công an Thành phố HCM dính líu; nhưng tới vụ PMU 18 thì nhiều cán bộ trong nhiều tổng cục bộ Công an đã toa rập; tới vụ Vinashin thì đã chạy tới cả cấp Bộ trưởng và các Thứ trưởng Công an. Mới đây vụ án “Vũ Nhôm” đã bộc lộ cả bộ máy công an đã trở thành tổ chức của các bọn Mafia cấu kết với nhau ở nhiều thành phố trong việc bán ruộng đất, nhà cửa, ngân hàng..!
Cầm quyền bất chính, các nhóm lợi ích chỉ lo tham nhũng quyền lực và tiền bạc làm giầu bất chính. Nên họ chỉ sử dụng và tập hợp những phần tử bất hảo trong xã hội vào bộ máy công an và tuyên giáo…Vì thế lực lượng công an và bộ Công an hiện nay đang trở thành như một quốc gia trong một quốc gia, thế lực ngày càng mạnh cả trong chính trị lẫn kinh tế, lấn át cả quân đội. Lực lượng công an đang tập trung những thành phần bất hảo, không chỉ đàn áp thô bạo nhân dân mà đang còn biến thành tổ chức Mafia cho các phần tử và các nhóm lợi ích vừa tham quyền và tham nhũng! Ngay gần 20 năm trước nguyên Trưởng ban Khoa giáo TU, tướng Đặng Quốc Bảo, đã xác nhận và cảnh báo: “Xã hội đen này lại nằm ngay trong nội bộ chúng ta.“ (Chương năm, X)
Đỉnh cao của thế lực công an nắm được thượng phong quyền lực ở cấp cao nhất của chế độ toàn trị là ĐH 12, với số tướng công an nhẩy vào BCT hoặc đang nắm giữ các chức then chốt cả trong đảng lẫn chính phủ gấp gần 4 lần so với các tướng quân đội. Vì thế Nguyễn Phú Trọng, một người không chỉ tham quyền mà còn rất đa nghi, đã phải nhẩy cả vào chỉ đạo trực tiếp Đảng ủy Công an TU, cơ quan mật vụ đầu não của chế độ toàn trị. Đây là lần đầu tiên một TBT làm như vậy. Nhưng ông Trọng nhẩy vào không phải là ngăn ngừa những sự tàn bạo và hành động theo kiểu Mafia của công an với nhân dân và sự thối nát của ngành này, mà chỉ muốn nắm bộ máy mật vụ trung thành và phục vụ những tham vọng mù quáng và vô giới hạn ông ta hơn! Cùng với bộ máy Tuyên giáo chỉ lo nịnh bợ lãnh đạo và tuyên truyền láo khoét, bộ máy công an mật vụ được gia tăng liên tục trở thành quốc gia trong một quốc gia là một bằng chứng không thể che dấu được là, những người cầm đầu chế độ toàn trị ngày càng xa dân, chống lại dân.
Chế độ toàn trị độc ác với dân, cúi đầu với BK, kinh tế tụt hậu; cán bộ tham nhũng quyền lực và tiền bạc nên rất thất nhân tâm. Vì thế để bảo vệ quyền lợi bất chính những người cầm đầu phải dựng lên chế độ công an trị. Nhưng chính nó đang đẩy họ xa dân hơn và ngày càng bị khinh thường và chống đối của nhiều thành phần trong xã hội từ nông dân, công nhân, thanh niên, trí thức và cả những đảng viên tiến bộ biết quí lòng tự trọng. Thất vọng vì sự nuốt lời hứa của nhóm lãnh đạo giáo điều nên Trung tướng Trần Độ, nguyên UVTU, Trưởng ban Văn hóa văn nghệ TU, Phó Chủ tịch QH đã công khai đứng lên tố cáo, đòi phải đổi mới thực sự cả trong chính trị nên đã bị khai trừ khỏi đảng. Trước đó nhiều văn nghệ sĩ và nhân sĩ tên tuổi trưởng thành dưới XHCN, đã nhận ra mặt trái của nhóm cầm quyền, cũng đòi lãnh đạo phải thực hiện lời hứa cởi trói thực sự. Các đại biểu nổi tiếng như Nhóm nhân sĩ Đà lạt gồm TS Nguyễn Xuân Tụ (Hà Sĩ Phu), Tiêu Dao Bảo Cự, thi sĩ Bùi Minh Quốc và Mai Thái Lĩnh; Ủy viên BCT Trần Xuân Bách công khai đòi “Đổi mới phải đi bằng cả hai chân” kinh tế và chính trị cũng đã bị nhóm giáo điều cách chức. GS Phan Đình Diệu, nhà dân chủ Lê Hồng Hà và nhiều chuyên viên cao cấp đã công khai nói trong cuộc Hội thảo do Tạp chí CS tổ chức là phải từ bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin đã sai lầm. (Xem Chương ba, I)
Cuối năm 2007 một số chuyên viên và nhân sĩ có uy tín đã thành lập Viện Phát triển Chiến lược (IDS). Đây là một tổ chức dân sự độc lập nghiên cứu và thảo luận về các vấn đề của VN, một số thành viên chính là Giáo sư toán học Hoàng Tuỵ, TS Nguyễn Quang A, bà Phạm Chi Lan, TS. Lê Đăng Doanh, PGS. TS. Chu Hảo, GS Phan Huy Lê, GS. Tương Lai, nhà văn Nguyên Ngọc, nhà thơ Trần Việt Phương…Nhưng khi TT Nguyễn Tấn Dũng dự tính ra Quyết định 97/2009/QĐ-TTg ngày 24/07/2009 cấm các chuyên viên và trí thức phổ biến các quan điểm của mình thì Viện IDS đã tự giải thể 9.09 để phản đối quyết định độc tài của chính phủ.[30]
Sự tố cáo của Tướng Võ Nguyên Giáp, một đại thần của chế độ, và một số ủy viên BCT và tướng lãnh trong các vụ Đỗ Mười-Lê Đức Anh toa rập làm đảo chính trong cung đình để hạ Lê Khả Phiêu. Vụ một số nhân vật có quyền lực trong BCT tìm cách ém nhẹm các hồ sơ Lê Đức Anh chuyên quyền và làm nhiều việc cực kì sai trái cho thấy, tham nhũng quyền lực đã nhẩy vào tới nội cung của chế độ toàn trị. Mức độ tha hóa đạo đức của những người có quyền lực tiếp tục gia tăng dưới thời 10 năm làm TBT của Nông Đức Mạnh. Nổi bật nhất là vụ tham nhũng động trời PMU 18 như một vụ “bom nổ hụt” có dính dấp tới gia đình của TBT Nông Đức Mạnh và làm chao đảo TT Phan Văn Khải.
Tham nhũng quyền lực và tham nhũng tiền bạc bùng nổ mạnh mẽ nhất suốt năm năm dưới thời Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng. Các phe nhóm chỉ lo tập trung tâm trí và sức lực để tiêu giệt lẫn nhau, thay vì bảo vệ chủ quyền của đất nước và quyền lợi thiết thực của nhân dân. Nó tạo cơ hội tốt cho BK đe dọa an ninh trực tiếp VN qua vụ để giàn khoan khổng lồ HD 981 nằm chình ình ngay trong thềm lực địa VN suốt mấy tháng giữa năm 2014. Sau đó Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng còn trải thảm đỏ để Tập Cận Bình dạy dỗ phải biết gửi gấm niềm tin và trung thành với BK! (Xem Chương tám, III)
Các tầng lớp nhân dân, kể cả các đảng viên tiến bộ, ngày càng thấy rõ lòng yêu nước giả dối và thoái hóa đạo đức của những người cầm quyền trước thái độ luồn cúi hèn nhát với đế quốc phương Bắc; chỉ lo tham nhũng quyền lực và tiền bạc, đồng thời không sáng suốt thức thời nhận ra những sai lầm, nhưng lại vẫn cực kì giáo điều ôm ấp chủ nghĩa Marx-Lenin đã phá sản. Vì thế lòng dân từ mất tin tưởng, thất vọng và đang chuyển thành chống đối… Các cuộc vận động kiên trì của nhiều tổ chức xã hội dân sự kết hợp chính trị, nhân quyền và tôn giáo của nhiều thành phần trí thức, chuyên viên, tu sĩ, thanh niên và nhiều giới xuyên qua các Bản Kiến nghị, Thư ngỏ….liên quan tới Dự án Bauxit ở Tây nguyên (2009), Sửa đổi Hiến pháp (2013), các cuộc biểu tình của hàng ngàn người chống lại việc BK ngang ngược đặt giàn khoan khủng HD 981 ngay trong thềm lục địa VN (2014) và tố cáo những người cầm đầu toàn trị đã toa rập để công ti Formosa gây ra thảm họa môi trường (2016). Mới đây nhiều nhân sĩ, trí thức, thanh niên và cả những đảng viên tiến bộ đã gởi Thư ngỏ cương quyết chống lại Dự luật thành lập các đặc khu kinh tế và Luật An ninh mạng và Tuyên bố chống lại việc chụp mũ và đàn áp tinh thần GS Chu Hảo (2018) đã được sự tham gia của rất nhiều giới ở VN và sự ủng hộ của nhiều tổ chức quốc tế và nhiều chính quyền dân chủ.
Dư luận trong nước và quốc tế rất thán phục lòng can đảm và tinh thần dấn thân của nhiều nhiều người trẻ VN, trong đó cả nhiều phụ nữ, cho nhân quyền, tự do dân chủ và độc lập của VN. Một số đại biểu như Bùi Thị Minh Hằng, Huỳnh Thục Vy, Lê Thị Công Nhân, Mai Khôi (ca sĩ) Nguyễn Nguyên Bình, , Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mẹ Nấm), Nguyễn Thị Kim Chi (nghệ sĩ), Trần Thị Nga…
Sự ra đời và hoạt động ngày càng nhiều các tổ chức xã hội dân sự ở ngay trong nước mặc cho những đàn áp và bội nhọ, như: Ba Sàm, Bauxit VN, Dân quyền, Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Cao trào Nhân bản, Diễn đàn Xã hội Dân sự, Hiệp hội Dân oan, Hội Anh em Dân chủ, Hội Bầu bí Tương thân, Hội Cựu Tù nhân Lương tâm, Hội đồng Liên tôn, Hội Nhà báo Độc lập, Hội phụ nữ Nhân quyền VN, Khối Tự do Dân chủ 8406, Lao động Việt, Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, Nhóm trí thức “Lão mà chưa an”, Tăng đoàn PGVNTN, Văn đoàn Độc lập Việt Nam, Văn phòng Công lý Hòa bình DCCT …
Các sự kiện trên chứng minh rằng, trình độ ý thức của nhân dân các giới ngày càng cao và lòng can đảm dấn thân đấu tranh chống bạo quyền ngày càng dâng cao. Dười thời đại Internet và kỉ nguyên toàn cầu hóa, cho nên chỉ muốn hé mở cửa cũng không thể được. Nhân dân và các tổ chức xã hội dân sự nhất quyết xé rào cản chính trị độc tài, xé rào cản công an bạo ngược, chấm dứt chế độ toàn trị, xây dựng một nước VN mới theo Dân chủ Đa nguyên!
- IV. Nhà dột từ nóc – Ai chịu trách nhiệm?
Đỗ Mười và Nguyễn Phú Trọng hai người cầm trịch chính
trong thời kì “đổi mới”, nhưng lại rất giáo điều, bất tài
và thiếu tư cách, trong khi thế giới đang thay đổi toàn diện
Sau trên 30 năm áp dụng mô hình “đổi mới” cực kì giáo điều và sai lầm, nên dẫn tới tình hình trong đảng và ngoài xã hội đang có những biến đổi sâu sắc với những lực lượng mới; tạo ra những tương quan mới, thế lực mới. Theo qui luật chung của xã hội từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim, những lực lượng cũ bảo thủ và phản động từng là nền tảng của chế độ toàn trị trở thành lỗi thời, cản bước đi của dân tộc nên đang bị thất thế, cô lập. Những phương pháp tổ chức cũ từng là xương sống và kỉ luật thép của chế độ toàn trị (như tập trung dân chủ) đều trở nên vô hiệu. Các dấu hiệu bất lợi này ngày càng bộc lộ rõ từ sau khi họ cực kì ngoan cố duy trì khuôn khổ cũ đã hoàn toàn sai lầm, nhưng vì tình thế nên họ bắt buộc phải thay đổi một số chính sách và biện pháp từ 1986. Các quyết định gọi là tập thể của BCT hay của ĐH đã bị bóp méo thời Đỗ Mười, rồi bị vứt vào sọt rác thời Nguyễn Phú Trọng. Tức là phe giáo điều qua thời gian bị trở thành thiểu số ngay trong đảng, nên đã phải dùng quyền lực độc đoán chống lại đa số. Cũng chính vì thế các phong trào chỉnh đảng, thanh lọc rất ồn ào và tốn kém bắt toàn bộ BCT, BBT và TUĐ phải thực hành TPB và PB trong nhiều tuần lễ rồi đưa ra biểu quyết kỉ luật ở các HNTU thời Nguyễn Phú Trọng đã trở nên vô hiệu, kịch cỡm, làm trò hề!
Khi vừa phát động phong trào chống tham nhũng ông Trọng đã lo ngại sợ bị “vỡ bình”, sau đó ông phải thân hành đứng ra làm người “đốt lò” để mong đốt cháy tham nhũng, nhưng mới đây ông lại phải than vãn không thể thực hiện bắt cán bộ “kê khai tài sản” trung thực và minh bạch. Những thái độ rất lúng túng này chứng minh, Nguyễn Phú Trọng đang thất bại trong việc chống tham nhũng do chính ông khởi xướng. Nguyên nhân chính của những thất bại này là do chế độ độc đảng đã tác yêu tác quái phá hoại đất nước trên 70 năm và đặc biệt cũng chính từ Nguyễn Phú Trọng, một người vừa giáo điều, rất tham quyền, đa nghi, vừa kiêu ngạo, vừa lạnh lùng vô cảm chống lại các khuynh hướng tiến bộ và dân chủ ở ngay trong đảng và ngoài xã hội!
Những chống đối trong đảng và thất bại của Nguyễn Phú Trọng trong TU thể hiện qua nhiều HNTU từ ĐH 11 tới sau ĐH 12 suốt 8 năm qua chứng minh là: 1. Các biện pháp từng được coi là nền tảng của chủ thuyết Marx-Lenin trong việc đào tạo và tuyển chọn cán bộ đã bất khả thi. 2. Sau hơn hai thập niên thực hiện KTTT ĐHXHCN trong đó các DNNN được giành những ưu đãi đã hình thành và phát triển những tương quan lực lượng mới ngay trong TUĐ. 3. Thành phần cán bộ có chức-quyền lại bao biện cả kinh tế (kinh doanh), chỉ đạo và quản lí trực tiếp hoặc gián tiếp các dự án nắm tiền bạc hàng trăm triệu, thậm chí cả tỉ USD không chỉ trong các bộ, các ban TU mà còn lan tỏa ở hầu hết 63 thành ủy và tỉnh ủy trên toàn quốc. Những cán bộ giầu có nhanh một cách bất chính lại có quyền lực cao kết hợp với nhau một cách mặc nhiên để bảo vệ và gia tăng các đặc quyền đặc lợi. Các cơ chế từng coi là nền tảng để răn đe và trừng trị như TPB và PB, lãnh đạo tập thể, đạo đức cách mạng… từng tỏ ra kiến hiệu trong các thập niên chiến tranh, khi mọi cán bộ cùng nghèo như nhau, nay đã chỉ như gãi ghẻ, hoàn toàn vô hiệu, chỉ nhằm che dấu bên ngoài!
Nói cách khác, dưới thời Nguyễn Phú Trọng ĐCSVN không còn là đảng thời kì 50-70 của thế kỉ trước. Khi đó hầu hết tầng lớp cán bộ cao và trung cấp không khác biệt quá nhiều về đời sống vật chất so với các cán bộ bình thường. Ngay cả các UVTU và UVBCT tuy được hưởng chính sách đãi ngộ vật chất đặc biệt, nhưng số này rất giới hạn và trong thời gian chiến tranh dù muốn cũng không thể sống trưng diện được. Tình hình này đã chấm dứt từ khi họ chủ trương DNNN là chủ đạo và giao nhiều đặc ân cho các cơ quan chủ quản, lúc đầu là các bộ. Nhưng thời Nguyễn Tấn Dũng làm TT bao thầu tất cả, từ chỉ định các giám đốc và các ban quản trị theo vây cánh, tới quản lí các nguồn vốn.
Một tâm lí chung bộc phát rất nhanh hầu như là một qui luật trong chính trị và kinh tế; đó là dưới chế độ độc tài, khi điều kiện thuận lợi những người có quyền lực sẽ tìm mọi cách thâu tóm cả quyền lực và tiền bạc để bảo vệ chính mình. Chế độ độc tài, nên tiền bạc chi thu không kiểm soát, cơ chế pháp luật lỏng lẻo. Đó là những điều kiện thuận lợi nhất cho những phần tử buôn quyền và buôn tiền. Tâm lí của giới cán bộ đang nắm quyền và tiền trong tay là muốn làm giầu nhanh hơn, nhiều hơn; như thế thì phải giành quyền cao hơn. Cho nên trước tiên là họ dùng quyền để moi tiền và phải biết các mánh khóe và thủ đoạn để dùng tiền mua quyền. Vì thế việc chạy chức, bán chức, mua quyền, mua bán bằng cấp trở thành là chuyện bình thường; không có phong bì thì việc không chạy; không có bằng cử nhân, tiến sĩ, giáo sư -dầu là bằng cấp giả hay mua bán- thì không được ngồi ghế cao! Dưới chế độ toàn trị hiện nay có quyền thì dễ moi tiền. Đồng bạc đánh bạt pháp luật, bán rẻ nhân cách và lòng tự trọng. Quyền và tiền quyện chặt khắng khít với nhau tạo thành các nhóm lợi ích từ trong đảng tới ngoài xã hội. Những điều này chính từ Lê Khả Phiêu tới Nguyễn Phú Trọng đã phải nhìn nhận!
Từ thời Đỗ Mười, đặc biệt dưới thời Nguyễn Phú Trọng, hai TBT có tư duy và tâm lí của một nông dân (miền Bắc); nhìn đất nước và thế giới không thoát khỏi lũy tre làng, bảo thủ, trì trệ, ưa chuộng sĩ diện hão, thích tôn ti trật tự theo kiểu cũ, thỏa mãn với quá khứ, sợ những cái lạ. Bên trong thì nạt dân, bên ngoài vẫn coi TQ như trung tâm của thiên hạ (thế giới), coi các nhà lãnh đạo BK như thiên triều, nên chỉ biết giữ trung thành.
Về tính tình và thái độ cư xử, hai người này đóng vai TBT giống hệt như một xã trưởng trong làng, hống hách, hách dịch, câu nệ; coi dân như con cháu trong nhà, chỉ thích được trọng vọng, không thích nghe lời chỉ trích, ai chống thì bị roi vọt, gông cùm. Vì thế họ chọn các cộng sự thân cận chỉ toàn những người giống như bọn trương tuần, cường hào ác bá đi bắt dân đóng thuế hành hạ dân như thời đầu Thế kỉ 20. Các trí thức và chuyên viên có suy nghĩ độc lập bị chèn ép, đàn áp, còn lại chỉ toàn những người khoa bảng và cầm bút chỉ biết nịnh hót!
Trong thời gian “đổi mới“ suốt trên 30 năm có hai chính trị gia thao túng quyền lực nhất là Đỗ Mười và Nguyễn Phú Trọng. Về căn bản giáo dục Đỗ Mười hầu như thất học. Cho nên thế giới quan của ông cũng chỉ cao như cái đình làng mà thôi! Đỗ Mười tuy chỉ làm TBT từ 1991-97, nhưng trước đó đã nhiều năm ở trong BCT giữ các chức PTT và TT. Sau khi một số nhân vật có uy tín cao như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ mất hoặc vì sức khỏe phải rút lui thì Đỗ Mười hầu như thao túng toàn bộ chính trường suốt từ cuối thập kỉ 80 của thế kỉ trước. Sau khi tạm thời nhường chỗ cho Lê Khả Phiêu vào cuối 1997, nhưng Đỗ Mười vẫn giữ ảnh hưởng cực lớn. Khi thấy Lê Khả Phiêu không đi đúng hướng mình muốn, ông đã cùng Lê Đức Anh ép Lê Khả Phiêu phải thoái vị và chọn Nông Đức Mạnh, một người tròn trĩnh đặt vào ghế TBT. Trong 10 năm Nông Đức Mạnh làm TBT thì hầu như Đỗ Mười không rời một bước. Học thức thấp, thế giới quan chỉ cao như cái đình làng; lại bị bệnh tâm thần nặng nên mất khả năng phân biệt được đâu là thực đâu là giả, cũng không ý thức được giới hạn, coi chuyện đất nước như chuyện riêng của cá nhân, nên đã đặt Nông Đức Mạnh làm TBT để dễ sai bảo. Một người bệnh hoạn, học thức thấp và tính tình như thế nhưng lại cầm quyền trực tiếp và gián tiếp suốt cả trên 20 năm, nên làm cho dân trí bị kìm kẹp, đất nước tụt hậu và Đảng bị lạc hậu, phân hóa mạnh hơn! (Chương ba, bốn, năm và sáu).
Khi sức khỏe không cho phép, Đỗ Mười đã ủng hộ Nguyễn Phú Trọng làm TBT. Ông Trọng tuy tốt nghiệp Tiến sĩ chính trị, nhưng chỉ chuyên ngành “Lịch sử đảng“. Có nghĩa là ông chỉ chú tâm học như con vẹt về lịch sử ĐCSVN, còn về quốc tế thì chỉ biết hai ĐCS TQ và ĐCS Liên xô, đã từng học ở đây một vài năm. Nghĩa là thế giới quan của ông cũng không thể vượt qua ý thức hệ Marx-Lenin và Liên xô toàn trị thời cực thịnh. Với nhãn quan giới hạn và cực kì sai lầm này thì không ngạc nhiên, cách cai trị của ông từ khi làm TBT cũng không khác ông xã trưởng trong làng!
Nhưng từ cuối Thế kỉ 20 xã hội VN đã không còn là xã hội của đầu Thế kỉ 20. Nhất là từ khi Liên xô sụp đổ, Đông Âu tan rã. Mở cửa hay là chết. Chế độ toàn trị ở VN không còn thể bế quan tỏa cảng được nữa, bịt kín như sau lũy tre làng. Họ bắt buộc phải mở cửa với thế giới, nhất là với các nước và khu vực từng là thù địch cả về văn hóa, lối sống và tư tưởng. Thế giới quan cũ và thái độ bảo thủ, tính tình và tâm lí nông dân, xã trưởng hách dịch và cường hào ác bá của họ hoàn toàn không thích hợp trước một thế giới mới họ phải nhập cuộc.
Hoàn cảnh này có thế ví như cái ao tù từ lâu ngăn cách hoàn toàn với bên ngoài, lại phải đứng trước nạn hạn hán kéo dài, nước ao cạn đến mức cá chết sắp hết. Muốn cứu cá (chế độ) nên phải vội vàng mở đập để cho nước (lạ) chẩy vào. Các luồng nước lạ chẩy mạnh tràn vào ao tù nên các cặn bã, bùn đã lắng đọng bao nhiêu năm bị đẩy lên. Nước ao đục đỏ ngầu, nên cả ao trở thành vẩn đục, hôi tanh. Tôm cá phải nổi lên và trở thành mồi ngon cho chim chóc. Tình trạng này đúng là xã hội VN của CS sau 30 chục năm phải mở cửa với bên ngoài. Tham nhũng như rươi, quyền lực và đồng Dollar đánh bạt đạo lí, kỉ cương. Xã hội vô pháp luật, vua tập thể và triều đình đỏ bạc nhược và tàn bạo, nên dẫn tới tình trạng trên bảo dưới không nghe, địa phương chống trung ương!
Trật tự cũ từ tư duy, ý thức hệ, văn hóa, tâm lí tới thái độ của hệ thống cai trị theo chế độ toàn trị đã hoàn toàn lỗi thời và đang trở thành lực cản để đất nước tiến lên! Cả thế giới, trong đó có VN, đang bước vào Thế kỉ 21, thời kì toàn cầu hóa kinh tế, tài chính, kĩ thuật và khoa học. Kỉ nguyên Internet đang phá các rào cản ngăn cách biên giới thông tin và văn hóa…Muốn VN tham gia tích cực, hội nhập bình đẳng, để dân giầu nước mạnh, bảo vệ hòa bình và gìn giữ độc lập thì phải thiết lập một trật tự mới, thích hợp với thời đại mới! Càng kéo dài trật tự phản động và lỗi thời của chế độ toàn trị chừng nào thì càng vô cùng bất lợi cho đất nước, càng nguy hiểm cho gìn giữ hòa bình và độc lập của VN! Vì thế tất yếu đã đến lúc nhân dân mọi thành phần phải đứng lên chống lại để chấm dứt bạo quyền! Lòng dân theo chính nghĩa sẽ chiến thắng những kẻ cầm quyền bất chính!
Có thể đi tới kết luận chung là, những gì Đỗ Mười và Nguyễn Phú Trọng thực hiện trong suốt trên 30 năm qua, nhưng cuối cùng đã chỉ dẫn tới hoàn toàn bế tắc và thất bại. Vì đây chỉ là đổi mới dối trá, tìm cách đánh lừa nhân dân. Mô hình “đổi mới“ này đã được cựu TT Phạm Văn Đồng định tính, định hình từ ngay Hội nghị Đại biểu Toàn quốc 1.1994: “Tôi nói điều này để khẳng định một lần nữa rằng, sự nghiệp đổi mới của chúng ta theo ĐHXHCN không thể cái gì khác là tiến tới CNXH, đó là mục tiêu của đổi mới!“ (Chương ba, X).
Như thế một khi đổi mới vẫn phải diễn ra trong khuôn khổ Định hướng XHCN; có nghĩa là, phải tiếp tục duy trì toàn bộ hệ thống toàn trị trong mọi lãnh vực, để cuối cùng tiến tới mục tiêu Chủ nghĩa Xã hội, mặc dù nó đã thất bại ở Liên xô, Đông Âu và VN! Đây lại chính là một cách chơi chữ nhằm đánh lừa nhân dân. Nói cho đúng, suốt trên 30 năm qua năm đời TBT từ Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh tới Nguyễn Phú Trọng họ chỉ là những người treo đầu dê bán thịt chó, cực kì lừa đảo!!!
Đặng Quốc Bảo, nguyên UVTU, Trưởng ban Khoa giáo TU và cháu của cựu TBT Trường Chinh, đã từng có thời mù quáng tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa Marx-Lenin, nên đã đòi “phải nhuộm đỏ thế hệ thanh thiếu niên“ VN. Nhưng sau những năm chứng kiến tận mắt công cuộc “đổi mới“ dối trá và biết rõ nội tình thối nát của nhóm cầm đầu toàn trị, nên ông đã hoàn toàn thất vọng và lên tiếng cảnh cáo rằng, sai lầm nguy hiểm nhất là, “chúng ta coi lí thuyết Mác là cái gì vĩnh cửu cao nhất!“ Theo ông, vì thế chế độ toàn trị ở VN đang rơi vào những khủng hoảng liên tiếp và các cuộc khủng hoảng này ngày càng mãnh liệt trên các lãnh vực. Đó là “khủng hoảng nhân sự ở cấp chiến lược, khủng hoảng về quan điểm, khủng hoảng về cơ chế, về sự giám sát.“ Vì thế Đặng Quốc Bảo tiên đoán rằng, không sớm thì muộn sẽ dẫn tới sự thành hình các “lực lượng đối trọng“ với ĐCS. (Xem Chương năm, X).
V. Biện chứng nào cho chế độ toàn trị do hậu quả từ công thức đổi mới và mô hình cai trị hiện nay?
Hay công thức đổi mới và mô hình cai trị của ĐCS sẽ dẫn chế độ toàn trị đi về đâu?
HCM và những người sáng lập ĐCSVN lúc khởi đầu lấy độc lập dân tộc, nhân quyền và hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu đấu tranh. Khi ấy họ chọn tiêu chuẩn giá trị trong xã hội theo thứ tự, coi DÂN TỘC LÀ MỤC TIÊU, ĐẢNG LÀ PHƯƠNG TIỆN để thực hiện mục tiêu. Nhưng sau khi chiến thắng và nắm quyền lực, họ cai trị đất nước theo hệ thống độc tài toàn trị, nên đã đội đảng lên đầu và bắt nhân dân phải trung thành và phục vụ đảng. Đảng nhẩy lên làm chủ nhân, nhân dân bị đầy xuống làm đầy tớ. Tức là đưa phương tiện trở thành mục tiêu và mục tiêu trở thành phương tiện!
Chủ trương cực kì sai lầm cố tình đảo lộn trật tự và giá trị xã hội, đảng trước nước sau dẫn tới biện chứng tất yếu là nhân dân trở thành đầy tớ dưới sự sai bảo và đày ải của những người có quyền lực. Thảm họa này đã bị phơi bày ra sau chiến thắng ở miền Nam của chế độ toàn trị vào 30.4.1975. Nói là “Giải phóng“, nhưng tại sao hàng triệu người lại bị nhốt trong các trại cải tạo, bị tịch thu tài sản và bị đẩy đi các vùng “kinh tế mới“ ở những nơi rừng thiêng nước độc? Nói là “hòa giải, hòa hợp dân tộc“, nhưng tại sao thi hành chủ nghĩa lí lịch cực kì kì thị phản động, tước bỏ quyền công dân, quyền học tập, quyền lao động, tự do tôn giáo, hàng triệu người trở thành thuyền nhân phải bỏ nước ra đi?[31]
Như thế rất rõ ràng là, NHỮNG NGƯỜI NẮM QUYỀN LỰC trở thành kiêu binh, độc tài vô độ. Như vậy quyền lực đã khiến họ tự diễn biến thay lòng đổi dạ, trở thành tù nhân của quyền lực và phản bội lời thề ban đầu! Từ đó diễn ra và dẫn tới tình trạng quyền lực không được kiểm soát, cũng giống như con ngựa không cương, xe không thắng.
Tiếp theo đó từ 1986 khi “đổi mới“ theo công thức CHẾ ĐỘ ĐỘC ĐẢNG + KTTT ĐHXHCN, trong đó giành ưu tiên-độc quyền trong nhiều lãnh vực kinh tế-tài chánh cho các DNNN như ở VN hiện nay. Chọn công thức này để phát triển kinh tế và xây dựng đất nước, như đã được thực tế chứng minh trong suốt trên 30 năm, đó chính là cách chắp cánh thêm cho quyền lực, thúc đẩy lòng tham của người có quyền lực. Vô cùng tệ hại và nguy hiểm nữa là, nay xã hội VN không chỉ bị lạm dụng rất tàn ác trong quyền lực mà đặc biệt còn bị cả tham nhũng tiền bạc cực kì trắng trợn! Các tệ trạng này ngày càng bùng nổ trong các bộ phận từ Đảng đến Chính phủ, từ BCT, BBT, TUĐ tới các cơ quan thành ủy, tỉnh ủy, quận ủy và xã ủy; từ Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội tới các cán bộ cấp dưới! Những sự kiện này đã dẫn tới những thảm trạng cho nhân dân và đất nước suốt trên mấy chục năm qua và đã được tác giả phân tích, dẫn chứng và trình bày cặn kẽ trong tập sách này.
Những tệ trạng và thảm trạng này chứng minh qui luật là, quyền lực và tiền bạc có sức thu hút cực kì mãnh liệt. Nó có sức phá hủy rất tàn khốc cả một chế độ, dù được võ trang đầy mình bằng hệ thống công an mật vụ ngày đêm và cả bộ máy tuyên truyền dối trá và xảo quyệt!
Quyền lực bất minh và tiền bạc bất chính tích lũy chồng chất trong mấy thập kỉ qua, nên trở thành ung nhọt trong Đảng và xã hội, như chứng bệnh ung thư tới giai đoạn cuối đang lan sang nhiều bộ phận trong cơ thể. Nó đang gây ra đố kị, giành dựt và nghi ngờ lẫn nhau. Hiện nay đang bước vào giai đoạn thanh toán lẫn nhau giữa các phe; cuối cùng giữa vài người có quyền lực lớn nhất và tiền bạc bất chính nhất cũng tìm cách thanh toán lẫn nhau. Đây là quá trình tất yếu dẫn tới bất ổn, mất an ninh trật tự cho toàn xã hội. Hiện nay xã hội ngày càng mất kỉ cương, tuân theo thói cá lớn nuốt cá bé, đạo đức xuống dốc, kinh tế không thể phát triển! Dân trí bị kìm kẹp, nội lực bị phá hủy, nhân dân nghèo đói và dẫn tới nguy cơ bị lệ thuộc bên ngoài. Đây chính là hoàn cảnh của VN hiện nay. Thành thử nhiều thức giả VN và quốc tế mới lên tiếng báo động, nêu lên câu hỏi: “Tại sao VN không muốn tiến lên, không lớn lên được?“ Hay “Nước mình ngộ quá phải không anh?“
Xét về mặt tri thức và kinh nghiệm của nhân loại từ Đông sang Tây từ cổ chí kim, mọi người có thể nhận ra rõ ràng nguyên nhân và nguồn gốc của tình trạng này. Qui luật của quyền lực và tiền bạc là, càng có nhiều quyền và càng có nhiều tiền của, nhưng không có cơ chế kiểm soát công khai và minh bạch thì lạm dụng quyền lực và tiền bạc ngày càng bung ra đến độ bất trị. Vì thế bệnh độc tài của chế độ toàn trị đang thả cửa cho bọn cán bộ có quyền lực nhưng vô tài thất đức được tự do bòn rút và lãng phí tiền bạc. Cho nên trong thực tế, công thức đổi mới “chế độ toàn trị + KTTT ĐHXHCN“ xuyên trên 30 năm qua đúng là mụ đỡ đắc lực nhất cho tham nhũng quyền lực và tham nhũng tiền bạc!
Nếu phân tích và giải thích theo biện chứng khoa học thì cách “đổi mới“ theo công thức một đảng độc tài lại được giao cho toàn bộ chỉ huy kinh tế theo KTTT ĐHXHCN, chính là cách khuyến khích đẩy mạnh diễn biến từ ĐẢNG (độc tài) -> NHÓM (lợi ích) -> CÁ NHÂN (độc tài)!
Một người (cá nhân) khởi thủy hoạt động chính trị, tham gia vào một đảng để tranh đấu cho quyền lợi tối thượng của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân (CÁ NHÂN -> ĐẢNG -> DÂN TỘC). Nhưng xuyên qua mấy thế hệ độc quyền, hoàn toàn vắng bóng cơ chế kiểm soát hữu hiệu, nên những người cầm đầu CSVN đã từng bước tự chuyển biến, tự chuyển hóa, để từ phục vụ dân tộc trở thành tự phục vụ cho chính cá nhân và gia đình họ. Điều này đang và càng dễ diễn ra nhanh và rộng trong các thập niên gần đây, vì lòng tham quyền-tiền được tự do bung ra dưới chế độ độc tài theo mô hình KTTT ĐHXHCN! Hiện nay trật tự xã hội đang bị chuyển biến toàn diện và cực kì nguy hiểm theo chiều hướng DÂN TỘC (bị lợi dụng) -> ĐẢNG (độc tài) -> NHÓM (lợi ích) -> CÁ NHÂN (độc tài). Nghĩa là BẬC THANG GÍA TRỊ trong xã hội hoàn toàn bị đảo lộn. Quyền lợi chung chính đáng của cộng đồng dân tộc đã bị thay thế bởi lòng tham và tính ích kỉ của kẻ nắm quyền hành cao và tiền bạc nhiều!
Sở dĩ diễn ra tình trạng tư cách của người lãnh đạo ngày càng bị thụt lùi, tha hóa, là vì trong chế độ toàn trị họ không bị thử thách thường xuyên và gay gắt trước các đối thủ chính trị và các bầu cử dân chủ công khai và định kì như trong các xã hội DCĐN. Trong các xã hội CS thiếu tự do báo chí và thông tin trung thực như ở các nước DCĐN, nên các người có quyền lực không bị theo dõi và kiểm soát nghiêm ngặt thường xuyên; vì thế dễ đi tới lạm quyền, vì không sợ bị tố cáo, trừng phạt và chỉ trích trước công luận.
Điều này cũng thấy trong lãnh vực kinh tế. Khi một sản phẩm không phải cạnh tranh công khai và thường xuyên thì chất lượng sản phẩm đó không được cải thiện với thời gian. Vì nhà sản xuất không phải lo lắng không bán được sản phẩm, nên cũng không sợ phải đóng cửa xí nghiệp. Đây là tình trạng xẩy ra thường xuyên trong các nước CS từ thời Liên xô. Nhà nước độc quyền kinh tế, tài chính, thương mại…nên các sản phẩm của các xí nghiệp quốc doanh luôn luôn có chất lượng rất xấu. Đây là lí do căn bản làm cho các sản phẩm dân dụng của các nước CS, như quần áo, giầy dép, máy giặt, máy rửa chén, máy hút bụi… không được người tiêu thụ ưa dùng. Ngay cả các cán bộ trung và cao cấp lại chỉ thích sử dụng các sản phẩm này từ các nước tư bản. Việc này đã được chứng nghiệm sau khi nước Đức thống nhất, người ta tìm thấy trong các biệt thự của các UVBCT ĐCS Đông Đức chỉ toàn các máy móc hạng tốt và sang của Tây Đức.
Các chính quyền CS nói chung, kể cả ở VN, đã không đếm xỉa tới qui luật tâm lí con người và xã hội học. Đó là, quyền lực càng cao nhưng không có kiểm soát nghiêm ngặt thì sẽ bị lợi dụng và lạm quyền. Nơi nào vắng bóng cạnh tranh lành mạnh thì không thể có tiến bộ và văn minh; nơi nào cổ súy cho bạo lực và hận thù thì nơi đó không thể có ổn định, hòa bình và thịnh vượng!
Nhân trị -Tức là một cá nhân cai trị một nước- tùy thuộc hoàn toàn vào tính khí và tư cách của người nắm quyền. Đây là cách tổ chức xã hội thời còn phôi thai, thời bộ lạc tới phong kiến. Lịch sử thế giới đã chứng minh các đặc tính dã man, tàn ác, chiến tranh, nô lệ…của các thời kì này. Thật rất đáng trách là, VN hiện nay dưới chế độ toàn trị đang đi dựt lùi trở về thời kì dã man trước!
Ở đây cần phải hiểu cho đúng nội dung của tiến trình xây dựng một xã hội tiến bộ và nhân bản theo tiêu chuẩn đặt giá trị theo thứ tự CÁ NHÂN -> ĐẢNG -> DÂN TỘC. Trong đó không nên hiểu theo lối cực đoan là cá nhân bị hi sinh (quyền lợi chính đáng) như thời Trung cổ, ngược lại phải hiểu theo nghĩa hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng. Cộng đồng (dân tộc) thịnh vượng thì cá nhân được hạnh phúc. Mỗi cá nhân có phần, có chỗ đứng xứng đáng trong xã hội. Chỗ đứng đó như thế nào tùy thuộc sự tham gia, thành tích đóng góp của cá nhân đó trong cộng đồng dân tộc.
Lí thuyết để giải thích cho phát triển của một cá nhân và một xã hội (quốc gia) như trên phải cần nhìn trong cả yếu tố tâm lí của cá nhân và của xã hội đó. Ở đây là động cơ (động lực) hành động của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Các động lực của cá nhân (ăn, uống, sống, an toàn, gia đình…) là tự nhiên trong từng con người. Các động lực này tồn tại suốt cuộc đời của một cá nhân. Một số động lực này có thể phát triển cực độ hay tới mức giới hạn nào tùy thuộc cái khung của xã hội đó. Nếu cái khung của xã hội đó (chính trị, kinh tế, luật pháp, văn hóa…) minh bạch, công bình, bình đẳng và nhân ái thì sẽ làm cho cá nhân và xã hội đó ổn định, thịnh vượng và có nhân phẩm. Khi đó những động lực cực đoan quá độ khó có thể phát triển gây nguy hại cho cộng đồng.
***
Qui luật biến thể từ một chế độ độc tài của một đảng, sau một thời gian biến thành độc tài của một nhóm, rồi thành độc tài của một cá nhân đều đã diễn ra ở nhiều nước, nếu ai theo dõi đều thấy rất rõ. Tuy nhiên, do những khác biệt về lịch sử, văn hóa và tâm lí của từng nước, tiến trình biến thể này có thể diễn ra nhanh hay chậm. Cụ thể như các chế độ đảng trị ở Bắc hàn và Cuba đã mau chóng biến thành chế độ độc tài cá nhân và gia đình trị, giống như các triều đại phong kiến. Chế độ toàn trị ở Liên xô cũng vậy, sau khi Lenin mất (1924) Stalin đã tiêu giệt các đối thủ ngay trong đảng, rồi thâu tóm mọi quyền lực thành độc tài cá nhân suốt trên một phần tư thế kỉ (1953). Chruschtschow lên thay tính cải tổ nhưng bị phe Breschnev lật (1964) và rồi chính ông cũng thanh toán các đối thủ trong đảng để thành độc tài cá nhân suốt gần 20 năm (1982). Tiếp đến thời Gorbatschow sau những cải tổ theo Glasnost và Perestroika giữa thập niên 80 đã dẫn tới đế quốc Liên xô tan rã vào năm 1991, chỉ còn lại một mình nước Nga. Hiện nay nước này biến thành độc tài cá nhân dưới quyền của Putin. Ở TQ sau khi ĐCS TQ chiếm được lục địa 1949 thì không lâu sau Mao Trạch Đông đã bỏ tù và giết hại các đối thủ trong đảng, trở thành độc tài cá nhân cả một phần tư thế kỉ. Sau khi Mao mất (1976) quyền lực rơi vào bạo loạn của nhóm Tứ nhân bang (bè lũ bốn tên) với Giang Thanh, vợ của Mao chủ xướng. Sau khi giệt được nhóm Tứ nhân bang Đặng Tiểu Bình trở thành độc tài cá nhân, cai trị TQ từ cuối thập niên 70 tới đầu thập niên 90. Từ khi Tập Cận Bình nắm quyền (2012) đang tìm cách thu vén quyền lực cho chính mình để nắm độc quyền như Mao Trạch Đông.
Tình hình này cũng đang diễn ra song hành trong ĐCSVN từ khi Nguyễn Phú Trọng nắm chức TBT (2011). Sau khi loại các đối thủ trong đảng ông Trọng vừa nắm luôn cả ghế Chủ tịch nước (2018) tính kế độc quyền lâu dài, mặc dầu đã 75 tuổi!
Riêng ở nhiều nước CS Đông Âu khi thời cơ thuận lợi vào cuối thập niên 80 của thế kỉ trước, nhân dân đã mạnh dạn đứng lên đấu tranh chuyển thẳng từ chế độ độc tài đảng trị sang chế độ dân chủ đa nguyên. Hiện nay đa số các nước này đã đạt được tiến bộ rõ ràng trong nhiều lãnh vực, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và hầu hết trở thành thành viên của Liên minh Âu châu (EU).
Nếu định nghĩa hoạt động chính trị là phải biết gian xảo, tàn ác và dối trá với đối thủ và nhân dân thì Lenin và Stalin ở cựu Liên xô, Mao Trạch Đông tới Tập Cận Bình ở TQ và từ HCM tới Nguyễn Phú Trọng ở VN được coi là những chính trị gia hàng đầu, bậc thầy của những hoạt động chính trị như thế. Họ đặt tiêu chí giá trị quyền lợi đảng và cá nhân lên cao nhất, cho nên sẵn sàng sử dụng mọi thủ đoạn gian xảo miễn là đạt được mục tiêu là nắm quyền bính. Ở Á châu và Âu châu hoạt động chính trị theo kiểu này cũng đã từng trở thành khuôn vàng thước ngọc dưới một số triều đại phong kiến như Tần Thủy Hoàng ở TQ, hay thời Trung cổ ở châu Âu và thời các nhà độc tài Hitler ở Đức và Mussolini ở Ý mở ra Thế chiến thứ hai vô cùng tàn bạo và tán tận lương tâm. Những chính trị gia độc tài bạo ngược đã bị lịch sử nhân loại phỉ nhổ.
Nhưng họat động chính trị phục vụ cộng đồng, lấy hạnh phúc của nhân dân, độc lập dân tộc và hòa bình khu vực và thế giới làm tiêu chí giá trị hàng đầu đã được nhiều chính khách thực hiện thành công. Như Tổng thống Hoa kì Roosevelt có công chấm dứt Thế chiến 2 và tạo lập một trật tự thế giới mới. Tổng thống Pháp De Gaulle và Thủ tướng Đức Adenauer đã can đảm biết chuyển hai nước từ tử thù thành bạn chân thành và xây dựng một Liên minh Âu châu dân chủ, phú cường và hạnh phúc lần đầu tiên trong lịch sử Tây Âu. Ở Ấn độ Gandhi cũng đã sáng tạo phương pháp đấu tranh bất bạo động, thu phục sự ủng hộ của đa số nhân dân, thuyết phục được thực dân Anh phải trao trả độc lập cho Ấn độ. Đấy là những chính khách có tầm nhìn, có đức độ và khoan dung, biết hành động theo tiếng gọi của lương tri, sẵn sàng lắng nghe các phản biện khôn ngoan và thẳng thắn của các giới trí thức, chuyên viên; đồng thời tin vào nhân dân trong các quyết định xuyên qua các cuộc bầu cử dân chủ tự do. Đây là những chính khách biết đặt quyền lợi chung trên lợi ích vị kỉ cá nhân. Họ luôn luôn được nhân loại kính trọng và lịch sử vinh danh!
Vào giữa thập niên 80 của thế kỉ trước số phận của Đảng như sợi chỉ treo ngàn cân, nhân dân đói nghèo, đất nước bị cô lập trên thế giới. Nếu sáng suốt và có tâm trong sáng thì những người cầm đầu chế độ toàn trị phải nhận ra nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn tới tình trạng nguy kịch và thảm thương này, và đáng lẽ ra phải biết, “Cầm chính đạo để tịch tà cự bí!“ (Bài thơ “Kẻ sĩ“ của Nguyễn Công Trứ). Nghĩa là phải thành thực từ bỏ tà đạo Marx-Lenin -như nhân dân ở Đông Âu cùng thời đã dứt khoát bỏ- chấm dứt chế độ độc tài để cùng với nhân dân và các thành phần tiến bộ tìm một sinh lộ mới cho đất nước nắm bắt cơ hội thoát khỏi nguy nan.
Nhưng những người cầm đầu ĐCSVN đã không có trí lớn, tâm sáng; nên đã thúc thủ thu mình và nhắm mắt như con nhím trước cơn nguy, chỉ tung ra các khẩu hiệu giả dối “lấy dân làm gốc“, “đổi mới hay là chết“ …(các khẩu hiệu của Trường Chinh 8.86) để chỉ cốt đánh lừa đảng viên và nhân dân. Trong thực tế vẫn thực hiện mọi thủ đoạn xảo quyệt và tàn ác để cốt cứu Đảng với công thức cực kì sai lầm là thực hiện KTTT ĐHXHCN trong chế độ toàn trị. Trong đó một vài người có quyền lực mạnh nhất nắm độc quyền, giao cho bọn cán bộ vừa bất tài vừa tham nhũng toàn quyền thao túng các Tập đoàn và Tổng công ti, các huyết mạch kinh tế, quốc phòng và an ninh toàn bộ xã hội; cho các công ti nước ngoài (FDI) thao túng kinh tế và bóc lột công nhân VN; cúi đầu thuần phục đế quốc mới TQ. Vì thế họ lại bỏ lỡ nhiều cơ hội của đất nước và cuối cùng Đảng (và chính quyền) cũng đang bị phân hóa trầm trọng, trở thành quân cờ của các nhóm lợi ích chỉ lo trục lợi và tham nhũng!
Hiện nay sự biến chất, biến thể và tha hóa đạo đức do động cơ cá nhân chỉ lo thu vén quyền lực và tiền bạc đang bung ra ngay từ vài phe nhóm cầm đầu trong BCT, cuối cùng sẽ dễ dẫn tới ĐỘC TÀI CÁ NHÂN. Khi đó những người cầm đầu các phe nhóm sẽ dùng các thủ đoạn thâm độc “lạnh tanh máu cá“ như thời Nguyễn Phú Trọng thanh toán phe Nguyễn Tấn Dũng để thâu tóm quyền lực và tiền bạc. ĐẢNG TRỞ THÀNH PHƯƠNG TIỆN để họ theo đuổi những tham vọng ích kỉ, gầm ghè nhau và sẵn sàng tìm cơ hội thanh toán nhau. Cường độ và tốc độ của sự tranh giành quyền lực mạnh hay yếu, nhanh hay chậm tùy theo các tính toán của những người cầm trịch, điều kiện xã hội và hoàn cảnh quốc tế từng giai đoạn. Mới đây Nguyễn Phú Trọng đã lạm dụng quyền lực cướp thời cơ, để một mình nắm giữ hai ghế cao, vừa đứng đầu Đảng lại cầm đầu Nhà nước, mặc dầu đã 75 tuổi!
VI. Biểu đồ diễn tả mục tiêu và đường lối tiến lên thiên đàng CS (XHCN) và so với kết quả thực tiễn
Tình hình phát triển giữa lí thuyết và thực tiễn ở VN từ Đại hội 6 (1986) tới Đại hội 12 (2016) có thể tóm lược diễn tả rõ ràng bằng một biểu đồ như dưới đây. Nó cho thấy, ngày càng cách xa mục tiêu XHCN, thậm chí đang có chiều hướng đi ngược lại với mục tiêu của CNXH. Thay vì đổi mới để tiến lên thiên đàng XHCN, VN đang biến thành địa ngục trần gian. Bọn đại quan đỏ có quyền nắm tiền bạc và cúi đầu trước phương Bắc, người lao động bị bóc lột, trí thức bị bạc đãi, những người bất đồng chính kiến bị giam cầm!
Cứ 5 năm một lần ĐCSVN lại tổ chức Đại hội. Trong đó ngoài việc bầu cử nhân sự mới ở các cấp cao nhất (TBT, BCT, BBT, BCHTU), còn ban hành kế hoạch ngũ niên về kinh tế-xã hội cho 5 năm tới. Trong đó đưa ra mục tiêu và các biện pháp để đưa VN từng bước tiến dần tới XHCN, tức thiên đàng CS (ààà) theo trí tưởng tượng của họ. Ở đó không còn cảnh người bóc lột người, không cần nhà nước (chính quyền), mọi người lao động theo khả năng, hưởng theo nhu cầu và thế giới đại đồng!
Đấy là mặt lí thuyết. Thực tế lại diễn ra hoàn toàn khác. Mỗi ĐH thường đề ra mục tiêu rất cao (- - - - ->), tùy thuộc vào trí tưởng tượng và ước muốn chủ quan khi đó của người có quyền lực. Nhưng kết quả thực tiễn đạt được lại rất thấp (――>). Cứ sau mỗi 5 năm họ lại đưa ra mục tiêu mới cho giai đoạn tiếp theo. Vào thời điểm đó, do sự chủ quan cũng như thích tô hồng, họ tin rằng (hay tự ru ngủ) là, mình đã đi đúng hướng, đã thành công được một giai đoạn và nay bước lên đỉnh cao mới trên đường tiến tới XHCN! Nhưng kết quả thực tiễn của giai đọan này cũng lại thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu đã đề ra, có khi còn đi chệch hướng. Tuy nhiên vì bị tâm lí ảo tưởng điều khiển và là nạn nhân của tuyên truyền tô hồng của chính mình, nên họ không nhận ra hay không muốn nhìn nhận sự thực này!
Qua thời gian sau nhiều ĐH, sự cách biệt, hay khoảng cách giữa mục tiêu tiến lên XHCN và kết quả thực tiễn ngày càng doãng ra, càng chệch hướng xa hơn nữa. Vì thế khi nhìn trên Biểu đồ thì thấy kết quả thực tiễn ngày càng xa thiên đàng CS, thậm chí còn đi ngược chiều. Biểu đồ dưới đây diễn tả tiến trình xây dựng XHCN sau 7 Đại hội (từ 1986-2016) của ĐCSVN trải qua trên 30 năm. Trong thực tiễn cho thấy, xã hội VN ngày càng xa thiên đường XHCN và có nguy cơ rơi vào chiều hướng tiếp tục ở trong vòng luẩn quẩn của các nạn độc tài, tham nhũng, nghèo đói và tụt hậu. Hoàn cảnh này có thể hình dung như người đi đường không có bản đồ (navigation), nhưng vẫn tin là mình đi đúng hướng!
Chính điều này NPT đã từng phải xác nhận. Khi đưa ra Cương lĩnh mới (2013) ông Trọng nói là phải đưa VN tiến nhanh lên CNXH. Nhưng chỉ ít lâu sau ông đã xác nhận là, không biết trong thế kỉ này (21) VN có tiến lên XHCN được không!
HCM đã từng nói, muốn xây dựng XHCN thì phải có con người XHCN.
Nhưng thực tế sau gần 70 năm nắm quyền và cai trị theo phương pháp sắt máu công an trị, dối trá, dùng bạo lực và đấu tranh giai cấp theo kiểu Stalin-Mao Trạch Đông, nên chế độ toàn trị của ĐCSVN đã thất bại hoàn toàn trong việc uốn nắn và đào tạo con người XHCN, nhất là từ giai đoạn gọi là “đổi mới“ từ 1986 tới nay. Hiện nay chế độ toàn trị ở VN đã đánh mất tính nhân bản, vì tham vọng quyền lực và tham lam tiền bạc, nên các phe nhóm đang dùng các thủ đoạn vừa thỏa hiệp vừa thanh toán lẫn nhau, lừa đảo và đàn áp nhân dân. Điều này sẽ đưa tới xã hội hỗn loạn và bất trị, biến thành chế độ tư bản rừng rú, kẻ
mạnh giết kẻ yếu!
___________________________________
Mục Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển điện tử:
hay www.dcvapt.net
[1] . Vừa mới mất 1.10.2018 (101 tuổi)
[2] . Đỗ Mười, Báo cáo chính trị tại Đại hội 7
[3] . Biên bản kiểm phiếu biểu quyết một số vấn đề trong văn kiện ĐH 11, CS 19.1.11
[4] . Sài gòn tiếp thị 19.1.11
[5] . Thông báo Hội nghị trung ương 10, CS 12.1.15
[6] . Nguyễn Phú Trọng, diễn văn bế mạc Hội nghị trung ương 10, CS 12.1.15
[7] . VNN 23.1.16. Xem Chương 8, IV
[8] . CP 3.10.18
[9] . VNN 4.10.18. Khi cuộc tranh giành quyền lực giữa Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng tới
giai đoạn quyết liệt tại HNTU 13(12.15), Nhị Lê đã viết trên TCCS điện tử ngày 22.12.15 “Nhận
diện và đột phá cấp bách các nguy cơ trong Đảng hiện nay“. Ông đã kết án lòng tham quyền lực
của ông Dũng là “lạnh tanh như máu cá“, nhưng lại ca tụng tham vọng quyền lực của ông Trọng
là “tài không nệ tuổi“. Xem Chương bẩy, IX.
[10] . VNN 6.10.18
[11] . Ông Trọng nói với cử tri HN, BBC 8.10.18
[12] . Ông Trọng nói với cử tri HN, BBC 4.10.18
[13] . TCCS 1.96.tr.26, xem Chương ba, XII
[14] . Giữa năm 1986 Trường Chinh chỉ kiêm nhiệm vài tháng 2 chức TBT và CTN.
[15] . Hồ Chí Minh tuyển tập (1919 – 1945) – Tập 1 (Nxb Chính trị quốc gia – 2002), trong CS điện tử
[16] . Nguyễn Phú Trọng, diễn văn bế mạc HNTU 10, 12.1.15
[17] . Hồ Chí Minh tuyển tập, 1921, sđd
[18] . VNN .7.5. 11
[19] . Nguyễn Phú Trọng nói với cử tri Hà nội ngày 17.6.18, TP 17.6.18
[20] . Hồ Chí Minh, sđd
[21] . Ngô Nhân Dụng, Bao giờ dân ta làm được cái đinh ốc? Người Việt 6.1.15
[22] . CS 18.12.15
[23] . Nguyễn Phú Trọng nói trước hơn 1000 cán bộ tại Hội nghị Cán bộ toàn quốc tháng 2.2012, VNE
27.2.12
[24] . BBC 8.8, 18.9,14.12.18 và 24.4,28.7,4.10.18
[25] . Nguyễn Phú Trọng nói với cử tri Quận Cầu giấy HN, TP 17.6.18
[26] . CS 3.10 & 23.10.18
[27] . RFI 29.8.18
[28] . Thư ngỏ gởi BCT ngày 27.10.18, DQ 27.10.18 https://danquyenvn.blogspot.com/2018/11/thu-ngo-cap-nhat-ot-cuoi-262-nguoi-ky.html; Thư ra khỏi đảng của GS Chu Hảo ngày 26.10.18; BBC 29.10.18
[29] . Nữ Nghệ sĩ Kim Chi: Tuyên bố ra khỏi ĐCS, https://danquyenvn.blogspot.com/2018/11/nu-nghe-si-kim-chi-tuyen-bo-ra-khoi-ang.html#more
[30] . BBC phỏng vấn Nguyễn Quang A 7.7.08 https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/story/2008/07/080707_nguyen_quang_a.shtml
Thủ tướng yêu cầu xử lý vụ IDS, https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2009/10/091016_pm_ids.shtml
[31]. Những thảm trạng này cho dân tộc đã được tác giả trình bày trong hai tập sách: Die
Vietnampolitik der USA… và Die politische Entwiclung…, sđd.