Hôm nay,  

Việt Nam dịch sai nội dung Công Ước LHQ: có thể dẫn đến vi phạm?

07/01/201915:02:00(Xem: 3582)

Việt Nam dịch sai nội dung Công Ước LHQ: có thể dẫn đến vi phạm?

  • Vấn đề phải đặt ra khi Việt Nam qua kiểm điểm về quyền dân sự và chính trị

 
Mạch Sống, ngày 7 tháng 1, 2019

http://machsongmedia.com

 
Một trong các nghĩa vụ của quốc gia ký công ước Liên Hiệp Quốc về nhân quyền là phổ biến nội dung của công ước trong ngôn ngữ quốc gia. Để thực thi nghĩa vụ này, nhà nước Việt Nam đã dịch và đăng tải Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị -- International Covenant on Civil and Political Rights (ICCPR). Ngày 11 và  12 tháng 3 tới đây, LHQ sẽ kiểm điểm Việt Nam về thực thi công ước này.

Trong “Danh Sách các Vấn Đề” (List of Issues, hoặc LOIs) mà Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ gửi cho chính phủ Việt Nam để chuẩn bị cho cuộc kiểm điểm về thực thi ICCPR, vấn đề hàng đầu được nêu lên là việc “nội luật hoá” các cam kết quốc tế trong Hiến pháp và khung pháp lý (chiếu theo điều 2 của Công Ước). Theo tổ chức BPSOS, trước hết LHQ cần kiểm chứng sự chính xác của bản dịch này vì nó ảnh hưởng đến toàn bộ quy trình “nội luật hoá” và thực thi các cam kết quốc tế, và nội dung của bản báo cáo giải trình với LHQ.

Để giúp cho Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ, cơ quan sẽ thực hiện cuộc kiểm điểm kể trên, BPSOS đã đối chiếu bản dịch của nhà nước Việt Nam với bản gốc tiếng Anh.


blank 

“Chúng tôi đã phát hiện một số điểm dịch sai đáng kể so với nội dung gốc,” Ts. Nguyễn Đình Thắng, Tổng Giám Đốc kiêm Chủ Tịch BPSOS, nói. “Dù cố ý hoặc vô tình, những điểm dịch sai này cần phải được điều chỉnh và phải được đưa vào nội dung của cuộc kiểm điểm.”

Đây sẽ là một trong các vấn đề sẽ được BPSOS bao gồm trong bản báo cáo thay thế nộp cho Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ trước cuộc kiểm điểm.

Ts. Thắng bày tỏ mối quan tâm là có thể các văn kiện LHQ khác cũng đã bị dịch sai.

  

Các điểm dịch sai có thể ảnh hưởng đến việc thực thi công ước
 

Điều 4:

Bản dịch đã chỉnh sửa:

1. Trong thời gian có tình trạng khẩn cấp xảy ra đe doạ sự sống còn của quốc gia và đã được chính thức công bố, các quốc gia thành viên có thể áp dụng những biện pháp giảm các nghĩa vụ của mình chiếu theo Công ước này, trong chừng mực đòi hỏi nghiêm ngặt bởi nhu cầu khẩn cấp của tình hình với điều kiện những biện pháp này không trái với những nghĩa vụ khác của quốc gia đó xuất phát từ luật pháp quốc tế và không chứa đựng bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội.

Bản dịch của nhà nước Việt Nam:

1. Trong thời gian có tình trạng khẩn cấp xảy ra đe doạ sự sống còn của quốc gia và đã được chính thức công bố, các quốc gia thành viên có thể áp dụng những biện pháp hạn chế các quyền nêu ra trong Công ước này, trong chừng mực do nhu cầu khẩn cấp của tình hình, với điều kiện những biện pháp này không trái với những nghĩa vụ khác của quốc gia đó xuất phát từ luật pháp quốc tế và không chứa đựng bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội.
 

Giải thích:

Điều 4 cho phép các quốc gia đã ký công ước, trong tình trạng khẩn cấp đe doạ đến sự sống còn của quốc gia, giảm đi các nghĩa vụ của chính quyền trong việc thực thi công ước, với điều kiện:

-         Sự giảm nhẹ nghĩa vụ này chỉ được áp dụng trong chừng mực hết sức cần thiết do nhu cầu khẩn cấp của tình hình;

-         Những biện pháp giảm nhẹ này không trái với những nghĩa vụ khác về cam kết quốc tế;

-         Những biện pháp này không chứa đựng bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội.

Theo đó thì nhân quyền của người dân vẫn nguyên vẹn; chỉ có nhà nước có thể giảm nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và phát huy các quyền ấy. Trong khi đó, bản dịch của nhà nước Việt Nam lại đổi nội dung thành việc quyền con người có thể bị thu hẹp.

 

Điều 9:

Bản dịch đã chỉnh sửa:

4. Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền sử dụng thủ tục tố tụng trước toà án, nhằm mục đích để toà án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp.

5. Bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp đều có quyền, mà quyền đó có hiệu lực thực thi, được bồi thường.
 

Bản dịch của nhà nước Việt Nam:

4. Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước toà án, nhằm mục đích để toà án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp.

5. Bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp đều có quyền được yêu cầu bồi thường.
 

Giải thích:

Nội dung gốc khẳng định là mọi người bị bắt hoặc giam giữ đều có quyền sử dụng thủ tục tố tụng trước toà án và nếu sự bị bắt hoặc giam giữ là bất hợp pháp thì có quyền được bồi thường. Trong khi đó bản dịch của nhà nước Việt Nam đã đổi thành “yêu cầu được xét xử” và “được yêu cầu bồi thường”, thể hiện thái độ xin – cho thay vì là quyền đương nhiên. Điểm này được lập lại tại Điều 14.6.

 

Điều 12:

Bản dịch đã chỉnh sửa:

3. Những quyền trên đây sẽ không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ những hạn chế do luật định, cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đức lý công cộng hoặc các quyền và các tự do của người khác, và phải phù hợp với những quyền khác được Công ước này công nhận.
 

Bản dịch của nhà nước Việt Nam:

3. Những quyền trên đây sẽ không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ những hạn chế do luật định và là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội hoặc các quyền tự do của người khác, và phải phù hợp với những quyền khác được Công ước này công nhận.
 

Giải thích:

Trong bản gốc, chữ “public morals” (đức lý công cộng) đã bị dịch sai thành “đạo đức xã hội”.  Đức lý công cộng là những quy tắc ứng xử tại nơi công cộng, như là khách không được ăn mặc hở hang tại các nơi thờ phượng, cán bộ không được phì phèo thuốc lá khi tiếp dân, v.v. Còn đạo đức xã hội là hệ thống giá trị áp đặt lên toàn xã hội mà mọi người phải tuân thủ. Dịch sai, cho phép nhà nước Việt Nam viện dẫn hệ thống giá trị này để hạn chế quyền tự do tư tưởng, lương tâm hoặc tôn giáo, như là không được nói xấu lãnh tụ, không được phê phán lãnh đạo, không được đi ngược chủ trương đoàn kết dân tộc.. Điểm này cũng ảnh hưởng đến các Điều 18, 19 và 21.

 

Điều 18:

Bản dịch đã chỉnh sửa:

1. Mọi người đều phải có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo. Quyền này phải bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc niềm tin do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tôn giáo hoặc niềm tin, một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, trong việc thờ phụng, thực hiện lễ nghi, thực hành và truyền giảng.

2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do  có hoặc đón nhận một tôn giáo hoặc  niềm tin do họ chọn lựa.

3. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc niềm tin chỉ có thể bị áp đặt các giới hạn được quy định bởi pháp luật và là cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự, sức khoẻ hoặc đức lý công cộng, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.
 

Bản dịch của nhà nước Việt Nam:

1. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng.

2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ.

3. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.
 

Giải thích:

Điều 18 này có nhiều điểm dịch sai nhất. Bản gốc dùng chữ “shall” – nhất thiết phải – để nhấn mạnh rằng quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo là quyền đương nhiên – mọi người nhất thiết phải có quyền này. Trong bản dịch của nhà nước Việt Nam, chữ “shall” này đã không được dịch.

Trong bản gốc, điểm 1 nói đến “tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo” thì nhà nước Việt Nam lại dịch thành “tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo” – tự do lương tâm bị thay thế bằng tự do tín ngưỡng. Đây là 2 khái niệm khác nhau.

Bản gốc dùng chữ “freedom of belief” nghĩa là “tự do về niềm tin” thì nhà nước Việt Nam lại dịch thành “tín ngưỡng”, nghĩa là niềm tin hướng về sự thiêng liêng. Khái niệm “niềm tin” theo Điều 18 bao gồm cả triết học, ý thức hệ, quan điểm chính trị, luân lý… 

Chữ “worship” trong bản gốc có nghĩa là “thờ phụng” lại bị dịch sai thành “thờ cúng”. Chữ “observance”, nghĩa đúng là thực hiện lễ nghi, đã bị dịch sai thành “cầu nguyện”. Cả 2 điểm dịch sai này đã giới hạn các khái niệm vốn bao gồm nhiều hình thức sinh hoạt đa dạng vào số sinh hoạt hạn hẹp là thờ cúng và cầu nguyện.

Cụm từ “adopt a religion or belief of his choice” mà trong bản gốc có nghĩa là “đón nhận một tôn giáo hoặc niềm tin mà mình chọn lựa” đã bị dịch sai thành “tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ”, không thể hiện được ý muốn chọn hoặc thay đổi tôn giáo hoặc niềm tin.

Ở điểm 3, nói về giới hạn quyền bày tỏ tôn giáo hoặc niềm tin, chữ “public safety” (an toàn công cộng) đã bị dịch sai thành “an ninh”. Theo ICCPR, quyền tự do tôn giáo hoặc niềm tin không thể bị giới hạn bởi lý do “an ninh” kể cả “an ninh quốc gia” mà chỉ có thể bị giới hạn vì lý do “an toàn công cộng”. Chẳng hạn, nếu việc tổ chức nghi lễ tôn giáo đình đám, ồn ào vào ở ngay sát một trường tiểu học ngay trong giờ học thì có thể được yêu cầu chuyển đi nơi khác hoặc đổi giờ khác vì lý do an toàn công cộng.
 

Bản dịch tiếng Việt được chỉnh sửa bởi BPSOS:
 http://dvov.org/wp-content/uploads/2019/01/ICCPR-Vietnamese-translation-with-edits-by-BPSOS.pdf

 

SOURCE: http://machsongmedia.com/vietnam/nhanquyen/1424-2019-01-07-21-57-40.html

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.