Hôm nay,  

Việt Nam dịch sai nội dung Công Ước LHQ: có thể dẫn đến vi phạm?

07/01/201915:02:00(Xem: 4331)

Việt Nam dịch sai nội dung Công Ước LHQ: có thể dẫn đến vi phạm?

  • Vấn đề phải đặt ra khi Việt Nam qua kiểm điểm về quyền dân sự và chính trị

 
Mạch Sống, ngày 7 tháng 1, 2019

http://machsongmedia.com

 
Một trong các nghĩa vụ của quốc gia ký công ước Liên Hiệp Quốc về nhân quyền là phổ biến nội dung của công ước trong ngôn ngữ quốc gia. Để thực thi nghĩa vụ này, nhà nước Việt Nam đã dịch và đăng tải Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị -- International Covenant on Civil and Political Rights (ICCPR). Ngày 11 và  12 tháng 3 tới đây, LHQ sẽ kiểm điểm Việt Nam về thực thi công ước này.

Trong “Danh Sách các Vấn Đề” (List of Issues, hoặc LOIs) mà Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ gửi cho chính phủ Việt Nam để chuẩn bị cho cuộc kiểm điểm về thực thi ICCPR, vấn đề hàng đầu được nêu lên là việc “nội luật hoá” các cam kết quốc tế trong Hiến pháp và khung pháp lý (chiếu theo điều 2 của Công Ước). Theo tổ chức BPSOS, trước hết LHQ cần kiểm chứng sự chính xác của bản dịch này vì nó ảnh hưởng đến toàn bộ quy trình “nội luật hoá” và thực thi các cam kết quốc tế, và nội dung của bản báo cáo giải trình với LHQ.

Để giúp cho Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ, cơ quan sẽ thực hiện cuộc kiểm điểm kể trên, BPSOS đã đối chiếu bản dịch của nhà nước Việt Nam với bản gốc tiếng Anh.


blank 

“Chúng tôi đã phát hiện một số điểm dịch sai đáng kể so với nội dung gốc,” Ts. Nguyễn Đình Thắng, Tổng Giám Đốc kiêm Chủ Tịch BPSOS, nói. “Dù cố ý hoặc vô tình, những điểm dịch sai này cần phải được điều chỉnh và phải được đưa vào nội dung của cuộc kiểm điểm.”

Đây sẽ là một trong các vấn đề sẽ được BPSOS bao gồm trong bản báo cáo thay thế nộp cho Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ trước cuộc kiểm điểm.

Ts. Thắng bày tỏ mối quan tâm là có thể các văn kiện LHQ khác cũng đã bị dịch sai.

  

Các điểm dịch sai có thể ảnh hưởng đến việc thực thi công ước
 

Điều 4:

Bản dịch đã chỉnh sửa:

1. Trong thời gian có tình trạng khẩn cấp xảy ra đe doạ sự sống còn của quốc gia và đã được chính thức công bố, các quốc gia thành viên có thể áp dụng những biện pháp giảm các nghĩa vụ của mình chiếu theo Công ước này, trong chừng mực đòi hỏi nghiêm ngặt bởi nhu cầu khẩn cấp của tình hình với điều kiện những biện pháp này không trái với những nghĩa vụ khác của quốc gia đó xuất phát từ luật pháp quốc tế và không chứa đựng bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội.

Bản dịch của nhà nước Việt Nam:

1. Trong thời gian có tình trạng khẩn cấp xảy ra đe doạ sự sống còn của quốc gia và đã được chính thức công bố, các quốc gia thành viên có thể áp dụng những biện pháp hạn chế các quyền nêu ra trong Công ước này, trong chừng mực do nhu cầu khẩn cấp của tình hình, với điều kiện những biện pháp này không trái với những nghĩa vụ khác của quốc gia đó xuất phát từ luật pháp quốc tế và không chứa đựng bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội.
 

Giải thích:

Điều 4 cho phép các quốc gia đã ký công ước, trong tình trạng khẩn cấp đe doạ đến sự sống còn của quốc gia, giảm đi các nghĩa vụ của chính quyền trong việc thực thi công ước, với điều kiện:

-         Sự giảm nhẹ nghĩa vụ này chỉ được áp dụng trong chừng mực hết sức cần thiết do nhu cầu khẩn cấp của tình hình;

-         Những biện pháp giảm nhẹ này không trái với những nghĩa vụ khác về cam kết quốc tế;

-         Những biện pháp này không chứa đựng bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội.

Theo đó thì nhân quyền của người dân vẫn nguyên vẹn; chỉ có nhà nước có thể giảm nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và phát huy các quyền ấy. Trong khi đó, bản dịch của nhà nước Việt Nam lại đổi nội dung thành việc quyền con người có thể bị thu hẹp.

 

Điều 9:

Bản dịch đã chỉnh sửa:

4. Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền sử dụng thủ tục tố tụng trước toà án, nhằm mục đích để toà án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp.

5. Bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp đều có quyền, mà quyền đó có hiệu lực thực thi, được bồi thường.
 

Bản dịch của nhà nước Việt Nam:

4. Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước toà án, nhằm mục đích để toà án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp.

5. Bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp đều có quyền được yêu cầu bồi thường.
 

Giải thích:

Nội dung gốc khẳng định là mọi người bị bắt hoặc giam giữ đều có quyền sử dụng thủ tục tố tụng trước toà án và nếu sự bị bắt hoặc giam giữ là bất hợp pháp thì có quyền được bồi thường. Trong khi đó bản dịch của nhà nước Việt Nam đã đổi thành “yêu cầu được xét xử” và “được yêu cầu bồi thường”, thể hiện thái độ xin – cho thay vì là quyền đương nhiên. Điểm này được lập lại tại Điều 14.6.

 

Điều 12:

Bản dịch đã chỉnh sửa:

3. Những quyền trên đây sẽ không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ những hạn chế do luật định, cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đức lý công cộng hoặc các quyền và các tự do của người khác, và phải phù hợp với những quyền khác được Công ước này công nhận.
 

Bản dịch của nhà nước Việt Nam:

3. Những quyền trên đây sẽ không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ những hạn chế do luật định và là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội hoặc các quyền tự do của người khác, và phải phù hợp với những quyền khác được Công ước này công nhận.
 

Giải thích:

Trong bản gốc, chữ “public morals” (đức lý công cộng) đã bị dịch sai thành “đạo đức xã hội”.  Đức lý công cộng là những quy tắc ứng xử tại nơi công cộng, như là khách không được ăn mặc hở hang tại các nơi thờ phượng, cán bộ không được phì phèo thuốc lá khi tiếp dân, v.v. Còn đạo đức xã hội là hệ thống giá trị áp đặt lên toàn xã hội mà mọi người phải tuân thủ. Dịch sai, cho phép nhà nước Việt Nam viện dẫn hệ thống giá trị này để hạn chế quyền tự do tư tưởng, lương tâm hoặc tôn giáo, như là không được nói xấu lãnh tụ, không được phê phán lãnh đạo, không được đi ngược chủ trương đoàn kết dân tộc.. Điểm này cũng ảnh hưởng đến các Điều 18, 19 và 21.

 

Điều 18:

Bản dịch đã chỉnh sửa:

1. Mọi người đều phải có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo. Quyền này phải bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc niềm tin do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tôn giáo hoặc niềm tin, một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, trong việc thờ phụng, thực hiện lễ nghi, thực hành và truyền giảng.

2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do  có hoặc đón nhận một tôn giáo hoặc  niềm tin do họ chọn lựa.

3. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc niềm tin chỉ có thể bị áp đặt các giới hạn được quy định bởi pháp luật và là cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự, sức khoẻ hoặc đức lý công cộng, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.
 

Bản dịch của nhà nước Việt Nam:

1. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng.

2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ.

3. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.
 

Giải thích:

Điều 18 này có nhiều điểm dịch sai nhất. Bản gốc dùng chữ “shall” – nhất thiết phải – để nhấn mạnh rằng quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo là quyền đương nhiên – mọi người nhất thiết phải có quyền này. Trong bản dịch của nhà nước Việt Nam, chữ “shall” này đã không được dịch.

Trong bản gốc, điểm 1 nói đến “tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo” thì nhà nước Việt Nam lại dịch thành “tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo” – tự do lương tâm bị thay thế bằng tự do tín ngưỡng. Đây là 2 khái niệm khác nhau.

Bản gốc dùng chữ “freedom of belief” nghĩa là “tự do về niềm tin” thì nhà nước Việt Nam lại dịch thành “tín ngưỡng”, nghĩa là niềm tin hướng về sự thiêng liêng. Khái niệm “niềm tin” theo Điều 18 bao gồm cả triết học, ý thức hệ, quan điểm chính trị, luân lý… 

Chữ “worship” trong bản gốc có nghĩa là “thờ phụng” lại bị dịch sai thành “thờ cúng”. Chữ “observance”, nghĩa đúng là thực hiện lễ nghi, đã bị dịch sai thành “cầu nguyện”. Cả 2 điểm dịch sai này đã giới hạn các khái niệm vốn bao gồm nhiều hình thức sinh hoạt đa dạng vào số sinh hoạt hạn hẹp là thờ cúng và cầu nguyện.

Cụm từ “adopt a religion or belief of his choice” mà trong bản gốc có nghĩa là “đón nhận một tôn giáo hoặc niềm tin mà mình chọn lựa” đã bị dịch sai thành “tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ”, không thể hiện được ý muốn chọn hoặc thay đổi tôn giáo hoặc niềm tin.

Ở điểm 3, nói về giới hạn quyền bày tỏ tôn giáo hoặc niềm tin, chữ “public safety” (an toàn công cộng) đã bị dịch sai thành “an ninh”. Theo ICCPR, quyền tự do tôn giáo hoặc niềm tin không thể bị giới hạn bởi lý do “an ninh” kể cả “an ninh quốc gia” mà chỉ có thể bị giới hạn vì lý do “an toàn công cộng”. Chẳng hạn, nếu việc tổ chức nghi lễ tôn giáo đình đám, ồn ào vào ở ngay sát một trường tiểu học ngay trong giờ học thì có thể được yêu cầu chuyển đi nơi khác hoặc đổi giờ khác vì lý do an toàn công cộng.
 

Bản dịch tiếng Việt được chỉnh sửa bởi BPSOS:
 http://dvov.org/wp-content/uploads/2019/01/ICCPR-Vietnamese-translation-with-edits-by-BPSOS.pdf

 

SOURCE: http://machsongmedia.com/vietnam/nhanquyen/1424-2019-01-07-21-57-40.html

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.