Hôm nay,  

Trang Sử Việt: Nguyễn An Ninh

09/05/201700:01:00(Xem: 8035)
(Lời tâm tình: Bài viết về “Sử Việt” chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của mỗi nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt. Trang Sử Việt đăng trên Vietbao Online vào thứ Ba và thứ Sáu hàng tuần).
________________ 
 
NGUYỄN AN NINH           
(1900 - 1943)
 
Nguyễn An Ninh quê huyện Hóc Môn (nay thuộc Sài Gòn). Thân phụ là ông Nguyễn An Khương là một nhà văn có tinh thần yêu nước, thông thạo nho và chữ Quốc ngữ. 
      Nguyễn An Ninh học ở trường Taberd, rồi Trường Chasseloup Laubat. Năm 1915 (15 tuổi), ông được nhận làm biên tập cho tờ Courrier saigonnais. Năm sau, tốt nghiệp trung học với bằng ưu, ông ra Hà Nội học Cao đẳng Y Dược. Học được nửa năm, ông lại quyết định chuyển sang học luật và chính trị với hy vọng biết để đấu tranh sau này. Năm 1918, ông sang Paris, học đại học ngành luật tại Đại học Sorbonne. Hai năm sau, ông được cấp bằng Cử nhân Luật hạng ưu.
 
Tại Pháp, ông liên lạc với các nhà yêu nước Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường... tìm cách giúp quê hương. Ngày 5-10-1922, ông về nước, ngày 25-1-1923, ông diễn thuyết bằng tiếng Pháp với đề tài: "Une culture pour les Annamites" (Chung đúc một nền học thức cho dân An Nam); kêu gọi mọi người dân Việt hãy mau mở mang dân trí, mau thoát ách nô lệ. 
     Ngày 22-2-1923, ông sang Pháp lần thứ hai, mục đích hoàn tất bằng Tiến sĩ Luật, rồi trở về nước, dịch 5 chương đầu cuốn “Khế ước xã hội” (Contrat social) của Jean-Jacques Rousseau nhằm truyền bá tư tưởng tự do: "Người ta sinh ra tự do, chính quyền là một tổ chức cai trị theo khế ước xã hội, vì thế chính quyền phải phục tùng ý chí của toàn dân".
 
     Ngày 15-10-1923, ông diễn thuyết đề tài: "L’ideál de la Jeunesse Annamite" (Cao vọng của thanh niên), tại Hội Khuyến Học Nam Kỳ ở Sài Gòn. Ông nói: "Cứ suy tôn Khổng Tử chúng ta khó tiến bộ. Tự do không phải là một món vật mà ta có thể chuyền tay, có thể cho hay bán. Ai cũng có thể được tự do. Hỡi thanh niên hôm nay, không ai cấm chúng ta phác họa ước mơ và cao vọng!”. Và ông nhấn mạnh: "Vì sao để thực dân Pháp khai thác và bóc lột đến tận xương tủy cả Đông Dương!" Đã được nhiều người nhiệt liệt tán thưởng. Bài diễn thuyết như tiếng chuông cảnh tỉnh thân phận người dân mất nước. 
      Thống đốc Pháp là Cognacq mấy lần gọi ông đến hăm dọa và cấm ông không được diễn thuyết cho dân chúng nghe. 
 
      Ngày 10-12-1923, ông lập tờ báo Pháp văn La cloche fêlée (Tiếng chuông rè) ở Sài Gòn, chỉ trích thực dân pháp, đề cao các nhà yêu nước và truyền bá tư tưởng tự do, ông làm chủ bút, biên tập, xếp chữ, còn tự ôm báo đi rao bán dạo. Thực dân Pháp thấy vậy, cấm các nhà in không nhận in; người bán báo, đọc báo đều bị theo dõi. Vì vậy, đến ngày 14-7-1924, báo Tiếng chuông rè đình bản. 
      Ngày 10-1-1925, ông sang Pháp lần thứ ba, tại Pháp ông viết: “Nước Pháp ở Đông Dương”, nội dung chống thực dân quyết liệt, đòi hỏi các quyền tự do dân chủ căn bản. Ngoài ra, ông còn diễn thuyết tại Khách sạn Hội Bác học (Hôtel des Sociétés Savantes), Paris, đề tài “Tinh thần dân chủ của nước Việt Nam”.
 
     Sau đấy, ông cùng Phan Chu Trinh về nước. Cuối năm 1925, ông cộng tác với Luật sư Phan Văn Trường (1875-1933), mở lại tờ báo Tiếng chuông rè. Ngày 21-3-1926, ông diễn thuyết trước 3000 người nghe, kêu gọi chống chủ nghĩa thực dân, ba hôm sau, ông bị nhà cầm quyền Pháp bắt kết án 18 tháng tù nhưng giam 10 tháng thì được thả.
     Ông qua Pháp lần thứ tư, đến ngày 6-1-1928, ông về nước, vào cuối năm 1928, ông bị Pháp bắt lần thứ hai về vụ “Hội kín Nguyễn An Ninh” và bắt một số người ủng hộ ông. Ông bị kết án 3 năm tù, ra tù ngày 3-10-1931. ông tiếp tục viết báo chỉ trích thực dân, nên đến tháng 4-1936, lại bị bắt về tội “phá rối trị an”, đến tháng 11 năm 1936 thì được thả.
 
     Đến tháng 7-1937, Pháp lại bắt giam ông lần thứ tư. Đến tháng 1-1939, ông ra tù và tiếp tục đấu tranh. Tháng 9-1939, Thế chiến thứ hai bùng nổ ở châu Âu; tại Đông Dương, thực dân Pháp thiết quân luật và truy lùng bắt các nhà yêu nước để ngăn ngừa dân bị trị vùng lên tự giải phóng mình. Ngày 5-10-1939, ông bị bắt lần thứ năm bị kết án 5 năm tù, lưu đày Côn Đảo. Trên đảo, ông bị hành hạ, bị đói khát nên kiệt sức qua đời vào ngày 14-8-1943, hưởng dương 43 tuổi.
 
Ông chẳng những là nhà chính trị kiên cường, còn là nhà văn thơ sâu sắc, ông để lại: Nước Pháp ở Đông Dương (La France en Indochine, 1925); Hai Bà Trưng (tuồng hát, 1928); Tôn giáo (1932); Dân ước (dịch những đoạn chính trong quyển Contrat social của Rousseau, 1923). 
 
      Bài thơ “Sống và Chết” của ông, nhiệt huyết yêu nước nồng nàn (trích 2 đoạn):
 
Sống mà vô dụng sống làm chi?!
Sống chẳng lương tâm sống ích gì?
Sống trái đạo người, người thêm tủi
Sống quên ơn nước, nước càng khi!
  
        Chết sao cho tiếng vẫn còn hoài
        Chết đáng là người đủ mắt tai
        Chết được dựng hình tên chẳng mục
        Chết đưa vào sử chữ không phai!
  
 *- Thiết nghĩ: Nguyễn An Ninh là người học thức uyên bác, được Pháp mến mộ và ưu ái ngay buổi ban đầu, nhưng ông không thể hưởng “vinh hoa phú quí” chỉ riêng cho bản thân và gia đình nên không hợp tác với Pháp, dứt khoát từ chối để dấn thân vì quốc gia dân tộc. Ông là một chính khách hoạt động chính trị kiên cường, đã nhiều phen bị thực dân Pháp bắt và giam cầm, nhưng lòng son sắt của ông không thể quên quê hương và dân tộc. Ông là người am hiểu đạo Phật, đạo Lão, đạo Khổng. Riêng Khổng giáo, ông đã thẳng thắn: "Cứ suy tôn Khổng Tử, chúng ta khó tiến bộ?!”.
 
     Nguyễn An Ninh là người luôn bôn ba lo nước nhà, trong những bài báo chống Tây của ông, nếu độc giả chỉ đọc hời hợt thì chỉ thấy lời lẽ nhẹ nhàng, nếu ngẫm nghĩ kỹ càng thì mới thấy ý tứ chặt chẽ, nội dung chống Tây sắc bén. Người đời còn lưu truyền: “Nhìn ông thể chất yếu ớt, nhưng khi nghe ông diễn thuyết qua các đề tài: ‘Cao vọng của thanh niên. Tinh thần dân chủ của nước Việt Nam...’ Giọng ông vang vang khắp hội trường. Lời lẽ hào hùng và tuyền cảm đã gây cho khán giả nhiệt liệt tán thưởng. Khi đấy mới hiểu tâm tư ông đã chứa chan tình non nước tự bao giờ?!”
     Nguyễn An Ninh trong 2 thập niên (1923 đến 1943) là nhân vật của thời đại và ngày nay là nhân vật của lịch sử.  
 
Cảm phục: Nguyễn An Ninh
  
Nguyễn An Ninh, chí khí hăng say!
Tranh đấu sắt son, dẫu đọa đày!
Du học Ba Lê, còn chống Pháp?!
Hồi hương đất Việt, vẫn trừ Tây! 
 
Nguyễn Lộc Yên  


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.