Đọc những khái lược về vấn đề nhiễm xạ đưa đến bệnh tật và cái chết, để thấy nếu là cấp tính thì chẳng có cách chữa, và ngay cả những phương tiện để làm giảm triệu chứng, giúp người bệnh bớt đau đớn, thì Việt Nam cũng không có.
Nếu nhiễm xạ nhẹ và chỉ có những triệu chứng nhức đầu , mệt mỏi, yếu người đi đến kiệt quệ, thì người nghèo khó sẽ chẳng có cơ hội được khám bệnh để mà biết là bệnh gì .
Ngay cả người không nghèo thì mấy ai đủ tiền đủ bạc để dễ dàng đi Singapore, đi Mỹ khám bệnh?
Ở ngoại quốc tại những vùng công nghệ , khi một số chỉ vài chục người có triệu chứng bất thường cũng đủ để gây nghi ngờ và kiểm soát y tế. Nhưng thử hỏi nếu điều này xảy ra tại Việt Nam thì ai lưu tâm tới ?
Ai đang kiểm sóat số người bệnh quanh những công xưởng , những vùng đào bô xít hiện nay trong nước?
Vậy thì làm sao có thể mong đợi có sự kiểm soát những vùng đã giao trọn vẹn cho người ngọai quốc ?
Vài nơi tai họa đã đến rồi. Tại Đồng Nai, tại Thanh Hóa, sông hồ bị nhiễm độc hóa học(3) ngay sát những công xửơng mà không bị phát hiện . Phải kéo dài chờ tới khi gần 1000 dân làng mắc nhiều bệnh hiểm nghèo như: Ung thư, thần kinh, u bướu, vô sinh và sinh con dị dạng...giới hữu trách mới tỉnh giấc.
Rò rỉ phóng xạ càng nguy hiểm và khó ngăn chặn hơn. Ngay tại những nước giàu kinh nghiệm với các nhà máy tối tân, chuyên viên được huấn luyện kỹ càng, như Mỹ, Pháp, mà tai nạn còn xảy ra. Trong khi Việt Nam tin tưởng hoàn toàn vào sự bảo đảm an toàn của hãng thầu Nga Rosatom để xây và điều hành nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận.
Không những hồ sơ thảm họa hạt nhân Chernobyl đầy bằng chứng sự tắc trách của chính phủ Sô Viết khi xảy chuyện, Nga còn là nước có thảm họa (Oyzorks-mayak) được dấu kín trong thời gian dài nhất lịch sử kỹ nghệ hạt nhân (4) và có những cách hành xử vô trách nhiệm đối với chính công dân của họ. Họ không từ cả sự đàn áp bịt miệng những nhà bảo vệ môi trường thí dụ như khi những người này tìm cách đến khám nghiệm mức ô nhiễm nước và đồng bằng sông Techa, ô nhiễm những hồ Kyzyltash, Tatysh, Karachai đã ngấm xuống nguồn nước ngầm.
Bên cạnh những mánh khóe quảng cáo sự tối tân của những nhà máy điện hạt nhân Nga rao bán chịu cho những nước tụt hậu như Việt nam, Hungary...Nga lại vẫn xử dụng ngay trong lãnh thổ mình 3 nhà máy chạy tổng cộng là 11 lò RBMK-1000, loại sử dụng tại Chernobyl, với tuổi tương tự hoặc lớn hơn và vẫn còn hoạt động. (7 trong số 11 lò này đã được cấp giấy phép tiếp tục hoạt động sau khi quá hạn sử dụng 30 năm).(5)
Trong khi thế giới lo lắng không có phương cách lưu trữ dài hạn chất thải phóng xạ, và để bảo vệ môi trường sống của những thế hệ tiếp nối, có những quốc gia dẫn đầu về ngành công nghệ hạt nhân đã can đảm quyết định dứt khoát với ĐHN để tối thiểu không làm tăng lượng chất thải, đồng thời phát triển nền kỹ nghệ năng lượng tái tạo, thì Nga thản nhiên đem đổ một số lượng lớn các lò hạt nhân đã ngưng hoạt động vào biển Kara ở Bắc Băng Dương, phía bắc Siberia. Các thùng rác phóng xạ nổi lều bều trên mặt biển đã bị Na Uy phát giác và chính phủ Nga đã không thể chối cãi.
Đó là tinh thần trách nhiệm của Nga, kẻ bảo đảm an toàn phóng xạ cho Việt Nam!
Nếu người Việt không quan tâm về việc con cháu mình đang có nguy cơ bị đầu độc phóng xạ, thì cũng chẳng cần quan tâm về việc ông Nguyễn Bá Thanh có bị chết vì phóng xạ hay không.