Ngoài ra tôi cũng yêu cầu họ lắp kiếng mờ vào cửa sổ của phòng tắm và phòng vệ sinh. Họ đã đồng ý với điều này và tính giá cả toàn bộ là $3,800. Sau đó họ yêu cầu tôi đặt trước $1,800 phần còn lại sẽ trả vào lúc công việc hoàn tất.
Tôi đã trả tiền cọc $1,800 như họ đã yêu cầu. Họ yêu cầu tôi ký vào hợp đồng về việc thay toàn bộ cửa kiếng cho căn nhà của tôi. Trong hợp đồng họ có đề là thay toàn bộ khung cửa sổ (sash) và kiếng cùng với giá tiền.
Vào lúc trả tiền cọc và ký vào tờ hợp đồng, tôi không để ý về việc họ không ghi rõ là khung cửa làm bằng loại gì. Họ cũng không ghi rõ là cửa sổ tại các phòng tắm và phòng vệ sinh phải được thay bằng loại kiếng mờ.
Sau đó chừng một tuần lễ, vì chúng tôi đều đi làm, các cháu ở nhà đã không biết là chúng tôi có ý định thay cửa như thế nào. Khi công ty mang cửa đến thay, họ đã hoàn tất cùng ngày.
Khi chúng tôi đi làm về mới biết được rằng công ty đã không làm đúng theo những gì mà họ đã đồng ý với chúng tôi trước đây, vì họ đã thay khung cửa bằng gỗ thay vì bằng nhôm. Các khung cửa này là loại đẩy lên đẩy xuống mà không phải loại đây sang một bên như đã đồng ý. Ngoài ra, cửa kiếng của phòng tắm và phòng vệ sinh không phải là loại kiếng mờ như đã thỏa thuận.
Ngay ngày hôm sau, tôi có gọi điện thoại cho công ty và yêu cầu họ thay lại toàn bộ cửa sổ như đã thỏa thuận trước đây. Họ có cho biết là đã làm đúng theo hợp đồng. Tôi bèn cho họ biết rằng nếu không thay đổi lại chúng tôi sẽ không trả tiền. Họ trả lời rằng nếu chúng tôi không trả số tiền còn thiếu họ sẽ đưa chúng tôi ra tòa.
Xin luật sư cho chúng tôi biết là chúng tôi phải làm gì trong trường hợp này"
Trả lời: Khi hợp đồng đã được soạn thảo thành văn bản và được các bên đương sự ký kết, thì luật pháp xem hợp đồng đó là sự thỏa thuận chính thức mà các bên đương sự đã đồng ý.
Tuy nhiên, nếu trong lúc thương thảo để đi đến sự ký kết hợp đồng, các bên đương sự đã đưa ra những lời hứa hẹn, nhưng cuối cùng những lời hứa đó không được đề cập đến trong văn bản của hợp đồng, thì các bằng chứng qua lời nói bằng miệng đó sẽ không được tòa án chấp nhận, vì đó là "bằng chứng ngoại vi" (extrinsic evidence).
Tuy nhiên, nếu "bằng chứng ngoại vi" "ám chỉ" (implied or implicit) là hợp đồng sẽ được thực hiện theo một phương thức đặc biệt nào đó mà các bên đương sự đã thông hiểu được khi ký kết, thì các "bằng chứng ngoại vi" này sẽ được tòa án chấp nhận, như đã được xét xử trong vụ Codelfa Construction Pty Ltd kiện State Rail Authority of NSW (1982).
Trong vụ này Codelfa đã tiến hành việc xây cất đường hầm xe lửa. Công trình sẽ được hoàn tất trong 130 tuần lễ, và thời gian 130 tuần được xem là điều kiện cơ bản của hợp đồng. Trong hợp đồng có điều khoản quy định về "việc gia hạn thời gian" (the extension of time) nếu vì lý do ngoài sự tiên liệu, không do lỗi hoặc "sự chểnh mảng" (negligence) của nhà thầu. Cả hai bên đương sự đều hiểu rằng "sự đấu thầu" (tender) được đệ nộp dựa trên căn bản là công trình sẽ được thực hiện "3 ca" (3 shifts) mỗi ngày, 6 ngày một tuần, và nếu cần làm luôn ngày Chủ Nhật. Mặc dầu trong hợp đồng không ghi rõ phương thức thực hiện công trình theo lối này. Sau khi công trình được khởi sự, tòa đã đưa ra án lệnh ngăn cấm Codelfa xử dụng máy móc đào đường hầm hàng ngày từ 10pm đến 6am và nguyên ngày Chủ Nhật.
Tòa đã đưa ra phán quyết rằng điều kiện để hoàn tất công trình trong thời hạn theo sự quy định của hợp đồng là vô hiệu, vì Codelfa không thể nào thực hiện công trình đúng theo hạn định khi có án lệnh ngăn cấm của tòa.
Trong một số trường hợp khác, tòa án có thể chấp nhận các "bằng chứng ngoại vi" nếu xét thấy rằng các bằng chứng đó cần phải được chấp nhận để hổ trợ cho văn bản của hợp đồng, đặc biệt là trong trường hợp hợp đồng đó chưa được thi hành, như đã được xét xử trong vụ Pym kiện Campbell (1815).
Trong vụ này Pym đã đồng ý bằng văn bản bán "sự phát minh" (invention) cho Campbell. Pym đã đồng ý bằng miệng rằng hợp đồng mua bán này chỉ có hiệu nếu "vật sáng chế" của đương sự được xét nghiệm và phê chuẩn bởi kỹ sư. Sự đồng ý bằng miệng này không được ghi vào văn bản của hợp đồng. Sau đó, kỹ sư đã không phê chuẩn "sự phát minh" (invention) đó. Tòa đã đưa ra phán quyết rằng lời hứa bằng miệng liên hệ đến việc xét nghiệm và phê chuẩn của kỹ sư là điều kiện tiên quyết của hợp đồng, và cho phép Campbell trưng dẫn bằng chứng đó để sửa đổi lại văn bản của hợp đồng.
Tòa án cũng chấp nhận bằng chứng liện hệ đến "sự thỏa thuận bằng miệng" (oral agreement) để sửa đổi lại văn bản của hợp đồng, như đã được xét xử trong vụ Harris kiện Sydney Glass and Tile Co (1904).
Trong vụ này Harris đã được trưng dẫn bằng chứng liên hệ đến lời hứa mà công ty đã đưa ra trong lúc liên lạc thư từ qua lại với Harris trước khi ký kết hợp đồng thuê mướn. Mặc dầu trong hợp đồng thuê mướn, công ty đã không đề cập đến việc giảm tiền mướn trong 6 tháng đầu tiền. Khi công ty khởi tố để đòi tiền mướn mà Harris còn thiếu công ty, tòa đã chấp nhận những thư từ qua lại giữa hai bên đương sự như là những bằng chứng để giảm tiền mướn cho Harris, mặc dầu điều này đã không được ghi vào văn bản của hợp đồng thuê mướn.
Theo các phán quyết vừa trưng dẫn, câu hỏi được đặt ra ở đây là nếu có sự tranh tụng, liệu những lời hứa bằng miệng mà công ty làm cửa sổ cho bà có thể được tòa chấp nhận như là những bằng chứng để yêu cầu họ làm lại các cửa sổ theo ý bà hay không"
Theo những bằng chứng mà bà đã nêu trong thư - nếu hợp đồng bà ký kết là đúng như những gì bà đã trình bày - tôi xin trả lời cho bà rằng công ty sẽ chỉ có thể thay lại loại kiếng mờ cho phòng tắm cũng như phòng vệ sinh, và bà phải trả nốt số tiền còn thiếu để tránh sự tranh tụng có thể xảy ra.