Hôm nay,  

Cách Làm Báo Thời VNCH Và Thời CHXHCNVN

24/09/201300:00:00(Xem: 8848)
VRNs (24.09.2013) – Sài Gòn – “Sự khác biệt “quan trọng nhất” và “rõ nhất” giữa 2 nền báo chí thời VNCH và thời CHXHCNVN là: Thứ nhất, thời VNCH có “báo chí tư nhân, thời Cộng sản “thì không”. Thứ hai, thời VNCH người làm báo không có bổn phận phải tuyên truyền cho chủ trương và chính sách của nhà nước như thời Cộng sản. Thứ ba, thời VNCH không có người làm báo cũng là “cán bộ của đảng cầm quyền” hay “phải viết theo lệnh của Cơ quan Chủ quản.” Thứ tư, thời VNCH, người làm báo “có quyền phê bình chính sách của nhà nước và chỉ trích “những sai lầm của cấp lãnh đạo”. Thời CS thì không được phép.” Nhà báo Phạm Trần bình luận.

Xin mời quý vị theo dõi cuộc phỏng vấn giữa phóng viên VRNs với Nhà báo Phạm Trần. Quý vị có thể nghe cuộc trao đổi trong Chương trình Việt Nam Tuần Qua của Truyền thông Chúa Cứu Thế.

VRNs: Xin ông vui lòng cho biết những nét đặc biệt của truyền thông thời VNCH khác truyền thông thời CHXHCNVN là gì?

Nhà báo Phạm Trần: “Những điểm căn bản khác biệt giữa hai nền báo chí thời VNCH và CHXHCN hiện nay là:

Thứ nhất, CHXHCN không có báo tư nhân, ngược lại thời VNCH có báo tư nhân. Thời VNCH nói vắn tắt là Miền Nam VN từ khi chia đôi đất nước năm 1954 cho đến 1975 thì lúc nào Miền Nam cũng có báo tư nhân.

Thứ hai, những người làm báo thời VNCH không phải là cán bộ của đảng hay những người thuộc tiêu chuẩn và điều kiện của nhà nước hoặc của cơ quan chủ quản. Thời VNCH, người làm báo tức là ký giả hoàn toàn tự do làm cho bất kỳ một tờ báo nào mà người ta muốn và hài lòng với số lương bổng, và không ai phải bắt họ viết theo lệnh của cấp trên.

Thứ ba, thời VNCH chủ báo không bao giờ yêu cầu người làm báo viết theo điều kiện của nhà nước, bởi vì nhà nước không bao giờ xen lẫn vào sinh hoạt báo chí của người làm báo. Hiến pháp thời VNCH đã bảo vệ quyền tự do ngôn luận một cách rất chính xác, đàng hoàng và mọi cơ quan phải tuân theo vì 3 cơ quan của nhà nước là Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp có những quyền độc lập và bảo vệ nhau. Chế độ VNCH là chế độ bảo vệ quyền tự do ngôn luận mặc dù đang ở trong thời gian chiến tranh nhưng tự do ngôn luận của người dân đã được bảo vệ tối đa. Những sự kiểm soát thời VNCH chỉ quy định ở lĩnh vực an ninh và ở lĩnh vực thuần phong mỹ tục. Ngược lại, ở chế độ XHCN, người làm báo phải làm theo lệnh của cơ quan chủ quản, cơ quan đảng, cơ quan đoàn thể, đặc biệt phải làm theo chỉ thị của Ban Tuyên Giáo chuyên lo về tuyên truyền. Và người làm báo phải viết theo đường lối và cổ võ vận động người dân làm theo yêu cầu của đảng và nhà nước.
pham-tran
Nhà báo Phạm Trần.

Thứ tư, thời VNCH, người làm báo không bao giờ tránh né phê bình các chính sách của nhà nước. Ngược lại, chế độ CHXHCN không có bất kỳ một tờ báo nào dám phê bình các chính sách của nhà nước. Từ sau năm 1975 cho đến nay tại Miền Nam và, trước đó tại Miền Bắc 1954 và cho đến nay, tất cả các báo đều là của nhà nước và người làm báo phải tuyên truyền chính sách của nhà nước.

VRNs: Trước 1975, truyền thông tác động như thế nào về sự thay đổi xã hội và chính trị VN?

Nhà báo Phạm Trần: Trước 1975, thời VNCH, báo chí có ảnh hưởng rất lớn về chính sách của nhà nước bởi vì báo chí có quyền phê bình chính sách nhà nước cũng như cá nhân lãnh đạo của nhà nước nào mà phạm lỗi và không có phục vụ người dân. Biết bao nhiêu vụ tham nhũng, lộng quyền, những vụ tai tiếng về đạo đức cá nhân dưới thời VNCH đã được báo chí phanh phui ra rất nhiều vụ tham nhũng thối nát trong chính quyền từ năm 1954 – 1975.

Báo chí có ảnh hưởng rất lớn đối với dư luận vì báo chí có quyền tự do hoàn toàn về tất cả mọi lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội v.v.… Báo chí có quyền nói miễn là không vi phạm đến vấn đề an ninh của Quốc gia VNCH. Còn tất cả mọi vấn đề khác người làm báo có quyền phê bình, có quyền viết và hoàn toàn tự do đăng mà không cần phải đưa bài báo của họ cho ai xem trước rồi mới được đăng. Sau khi đăng trên báo, bài báo đó được nộp cho cơ quan kiểm duyệt. Trừ những vấn đề liên hệ đến an ninh quốc gia hay thuần phong mỹ tục, ngoài ra các tờ báo vẫn giữ lập trường của họ. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội thời VNCH vì đây là một trong những vấn đề làm cho nền chính trị Miền Nam VN tồn tại đến 1975, bởi nhờ vào dư luận của quần chúng và báo chí đã đóng góp, bảo vệ và duy trì nền văn hóa cởi mở tự do tại VNCH, tức tại Miền Nam VN.

Ngược lại với Miền Bắc từ năm 1954 cho đến bây giờ, nền văn hóa của Miền Bắc vẫn lệ thuộc hoàn toàn vào đường lối của đảng, cơ quan Tuyên giáo (trước đây là cơ quan Tư tưởng – Văn hóa của đảng) kiểm soát toàn diện về vấn đề văn hóa, văn nghệ cũng như báo chí. Quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận được quy định trong Hiến pháp và luật báo chí, nhưng hoàn toàn là những chuyện đầu môi chót lưỡi và [nhà cầm quyền CS] chưa bao giờ thực hiện. Bởi vì người dân ở Miền Bắc cũng như người dân ở Miền Nam bây giờ, nói chung người dân VN chưa bao giờ được phép ra báo, do đảng CS không cho phép và đảng đưa ra những luật quy định rất ngặt nghèo không cho phép người dân ra báo. Thành ra, ảnh hưởng của xã hội chỉ là ảnh hưởng một chiều và báo chí chỉ phục vụ đảng, còn tiếng nói của người dân không bao giờ được phản ánh một cách trung thực trên báo chí của thời XHCN.

Thời VNCH, người dân có toàn quyền phát biểu ý kiến và toàn quyền đóng góp tất cả những hiểu biết của họ trong mọi lĩnh vực văn hóa, kinh tế, xã hội và chính trị. Nhà nước không có quyền kiểm duyệt những bài báo của người dân. Chủ nhiệm của mỗi tờ báo có quyền lựa chọn đăng những bài báo có ích lợi cho Quốc gia, cho công luận và cho xã hội. Và, chủ nhiệm của mỗi tờ báo có quyền không đăng hoặc yêu cầu người viết sửa đổi những bài bài báo có tính cách gây chia rẽ tôn giáo, xã hội và làm đảo lộn thuần phong mỹ tục văn hóa của người VN.

Thời VNCH có tự do ngôn luận và tự do báo chí nhưng thời CHXHCNVN thì không, mặc dù có sự đóng góp ý kiến của người dân. Nhưng các ý kiến của người dân chỉ đi theo chiều hướng và theo yêu cầu của mỗi tờ báo, mà mỗi tờ báo theo đường lối của đảng nên các nguyện vọng và ý kiến của người dân không được đáp ứng. Trong một vài năm vừa rồi, báo chí tương đối có sự cải tiến và cởi mở nhưng đó chỉ là thay đổi các vấn đề xã hội, bức xúc của người dân về tham nhũng, về các tội ác trong xã hội, về vấn đề y tế, giáo dục, lưu thông… Nhưng điều này, không có nghĩa người dân có quyền phê bình những chính sách của nhà nước, phê bình các cá nhân lãnh đạo của nhà nước… Báo chí và người dân thời XHCN không bao giờ dám làm những điều này. Đây là sự khác biệt giữa hai nền báo chí thời VNCH và CHXHCNVN.

VRNs: Trong bối cảnh VN hiện nay, kinh nghiệm nào của truyền thông thời VNCH có thể áp dụng lại được, và áp dụng như thế nào?

Nhà báo Phạm Trần: Nếu muốn xã hội có sự cải tiến, muốn nhà nước có tự do dân chủ, xã hội công bằng và có những giải pháp giải trừ nạn tham nhũng, nạn cường quyền áp bức thì người dân phải có quyền tự do. Điều này, buộc phải có tư nhân ra báo, phải có nền báo chí khác với nền báo chí một chiều của nhà cầm quyền CS thì mới phục vụ cho xã hội một cách có hiệu lực và hiệu quả.

Vấn đề chống tham nhũng ở VN vẫn trì trệ từ bao nhiêu năm nay. Từ năm 2005, nhà cầm quyền CS đưa ra luật chống tham nhũng, sau đó [nhà cầm quyền lập ra] Ủy ban Chỉ đạo Trung ương phòng và chống tham nhũng ở cấp nhà nước và đảng nắm lấy chức vụ này, do ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thay cho ông Nguyễn Tấn Dũng (Thủ tướng) trông coi vấn đề phòng và chống tham nhũng nhưng tham nhũng vẫn tồn tại và càng ngày càng nghiêm trọng hơn. Ông Huỳnh Phong Tranh (Tổng Thanh tra Chính phủ) là người lo về vấn đề thanh tra của nhà nước đã xác nhận điều này trong một cuộc điều trần trước Ủy ban thường vụ Quốc hội vào ngày 18 vừa qua. Điều này không có gì xa lạ với người dân VN.

Tại sao người dân VN không muốn tham gia phòng và chống tham nhũng? Bởi vì người dân không được pháp luật bảo vệ. Tại sao người dân không muốn tố cáo tham nhũng? Bởi vì không có ai muốn bảo vệ người dân, người dân sợ bị trù dập, sợ bị trả thù. Và đã có một vài Đại biểu Quốc hội đã lên tiếng, chỉ vì dám lên tiếng chống tham nhũng một cách rất tích cực cho nên đã nhận được nhiều cuộc điện thoại và thư từ nặc danh đe dọa và cảnh cáo không nên xen lấn vào những việc làm của những kẻ có chức có quyền tham nhũng.

Muốn có sự cải thiện và thay đổi xã hội, cũng như muốn có sự đóng góp của người dân trong mọi lĩnh vực không những về vấn đề chống tham nhũng, kinh tế, giáo dục, văn hóa và giải trừ tội ác trong xã hội thì người dân phải có quyền tự do ngôn luận và phải có nền tự do báo chí trong chế độ CHXHCNVN. Điều này đã được áp dụng dưới thời VNCH và đây là điều nên áp dụng cho chế độ CHXHCNVN hiện nay.

VRNs: Xin cám ơn Nhà báo Phạm Trần.

Huyền Trang, VRNs thực hiện

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.