(Lời tâm tình: “Sử Việt” chỉ khái quát các Nhân vật lịch sử, không đi sâu từng chi tiết của Nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung của đề tài đã biên soạn. “Sử Việt” đăng vào ngày thứ Ba Tuesday mỗi tuần).
NGÔ VƯƠNG: NGÔ QUYỀN
(897- 944)
Ngô Quyền sinh năm 897 (Đinh tỵ), quê Đường Lâm (Hà Nội). Người khôi ngô, trí dũng, sức lực hơn người. Ông được Dương Diên Nghệ gả con gái là Dương Như Ngọc và cho trấn thủ Ái Châu, là một vị trí chiến lược quan trọng, vì nơi đây sẽ ngăn ngừa quân Lâm Ấp.
Năm 937, loạn tướng Kiều Công Tiễn giết chết Dương Diên Nghệ, sau đấy nghe lòng dân ai oán và sợ quân lực tinh nhuệ của Ngô Quyền; nên Tiễn lại thần phục Nam Hán. Từ lâu, Lưu Cung là vua Nam Hán đã dòm ngó Giao Châu, nhưng đất Giao Châu nhiều người tài giỏi, can trường gìn giữ thổ cương, đã biết bao lần triều đình Trung quốc đem quân xâm lược, nhưng một thời gian sau bị người Giao Châu quật khởi đánh đuổi, như: Trưng Vương, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế... Giờ đây Kiều Công Tiễn cho sứ cầu cứu, là dịp may. Vua Nam Hán cho điểm binh mã, sai con là Thái tử Hoằng Thao làm tiên phong, chính Lưu Cung dẫn quân hậu viện, ào ạt đem quân xâm lăng nước ta.
Dương Cát Lợi vội vàng báo hung tin cho Ngô Quyền biết. Ngô Quyền ngẫm nghĩ suy tính tình hình, rồi nói: “Trước phải khẩn cấp thanh toán thù trong, để nội bộ thống nhất, sau dùng kế sách đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi”
Ngô Quyền đem quân đến Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn xong, hiệu triệu thiên hạ cùng đồng tâm cứu nước, chuẩn bị chống giặc Nam Hán xâm lăng. Ngô Quyền sai quân dùng cọc nhọn đầu bịt sắt, đóng giữa lòng sông Bạch Đằng, chờ nước thuỷ triều lên đem quân khiêu chiến, rồi giả thua nhử giặc vào giữa cọc trận, đợi lúc thuỷ triều xuống, quân ta phục kích hai bên bờ sông đổ ra rầm rộ, cánh quân ta ở phía trên dòng sông tức tốc quay ngược thuyền lại, đồng loạt phản công mãnh liệt. Lúc ấy gió thổi mạnh, nên sóng nước ào ào như có thiên thần trợ chiến, giúp quân dân ta đuổi giặc cứu nước vì chính nghĩa. Quân ta dùng tên lửa bắn như mưa, thuyền giặc và xác giặc bị chết chìm, chết cháy, trôi lểnh nghểnh chật cả lòng sông, máu đỏ sóng nước.
Hoằng Thao bị bắt và bị giết. Lưu Cung nghe tin con chết, khóc rống thảm thiết, sợ sệt, vội vàng cho rút quân về Nam Hán. Về đến Nam Hán, nghĩ tên Lưu Cung xui xẻo, đổi tên Lưu Yểm.
Ngô Quyền quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, lên ngôi xưng là Ngô Vương, đóng đô ở Cổ Loa (Phúc Yên). Ngô Vương đặt ra quan chức, chế triều nghi, củng cố quân ngũ, quyết tâm dựng nghiệp lâu dài, làm vua được 6 năm thì mất ngày 18 tháng Giêng năm Giáp Thìn, thọ 47 tuổi.
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng đất nước trên quy mô lớn. Đó là kỷ nguyên lẫy lừng của Đại Việt, cũng từ đấy mới có phá Tống, bình Chiêm oanh liệt, đuổi quân Nguyên và quân Minh giòn giã. Cũng từ đấy các triều đại: Lý, Trần, Lê... đã đưa Đại Việt lên rực rỡ.
Sử gia Lê Văn Hưu, bàn về Ngô Quyền: “Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được.
Trong “Việt sử Tiêu án”, sử gia Ngô Thì Sĩ, đã đánh giá: “Trận chiến thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời Đinh, Lê, Lý, Trần sau này nhờ vào uy danh lẫm liệt ấy để lại. Trận Bạch Đằng vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lẫy lừng ở một thời bấy giờ mà thôi đâu”.
*- Thiết nghĩ: Chiến thắng Bạch Đằng giang, có thể coi là trận chung kết toàn thắng của dân tộc Việt Nam trên con đường đấu tranh chống Bắc thuộc và chống đồng hóa. Nhìn vào bối cảnh Bắc thuộc kéo dài trên một nghìn (1000) năm, mới thấy hết ý nghĩa lịch sử vĩ đại của trận chiến này. Hơn nữa, trong hơn 1000 năm Bắc thuộc đó, kẻ thù của dân tộc Việt là một đế chế mạnh bậc nhất ở phương Đông, với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đang lúc phát triển cao độ. Nhà Hán đã chinh phục Bắc Triều Tiên, chiếm đất đai các bộ lạc du mục phía Bắc, mở rộng lãnh thổ về phía Trung Á. Nhà Đường (Tàu) bành trướng về mọi phía, lập thành một đế chế bao la, Đường Thái Tông đã từng tuyên bố: “Ta đã chinh phục được hơn 200 vương quốc, dẹp yên bốn bề, bọn Di Man ở cõi xa cũng lần lượt về quy phục” (theo Đường thư).
Từ đầu công nguyên, dân tộc Hán đã có trên 50 triệu người. Trong khi đó, dân số của Việt Nam chỉ độ 1 triệu. Sau khi chiếm được Việt Nam, mưu đồ của nhà Hán không phải chỉ dừng lại ở chỗ thủ tiêu chủ quyền quốc gia, bóc lột nhân dân, vơ vét của cải, mà còn tiến tới đồng hóa vĩnh viễn dân tộc Việt, sát nhập đất Việt vào nước Tàu. Chính sách đồng hóa là đường lối của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, đã âm mưu thực hiện từ nhà Hán tới nhà Đường. Trong hoàn cảnh cực kỳ hiểm nghèo và thử thách này. Ngô Quyền, người anh hùng tạo ra chiến thắng Bạch Đằng giang năm 938, xứng đáng với danh hiệu là “vị tổ trung hưng” của dân tộc ta, như Phan Bội Châu đã viết trong “Việt Nam quốc sử khảo”.
Cảm bội: Ngô Vương
Nam Hán lăm le cướp nước ta
Giặc ngoài, nội loạn khó dung tha
Thuyền Tàu vướng cọc, tròng trành đắm
Quân Hán trúng tên, lảo đảo sa
Xác giặc lửa thiêu, trôi lểnh nghểnh
Thây thù nước cuốn, nổi hằng hà
Bạch Đằng muôn thuở tan tành giặc(a)
Lẫm liệt Ngô Vương dựng nước nhà
_________________
(a)
- Trận Bạch Đằng giang, do Ngô Quyền chỉ huy diệt quân Nam Hán vào ngày 7 tháng Chạp Mậu Tuất (31-12-938). Nơi đây, năm 1288, Trần Hưng Đạo, một lần nữa đuổi quân Nguyên xâm lăng nước ta lần thứ hai.
Nguyễn Lộc Yên
NGÔ VƯƠNG: NGÔ QUYỀN
(897- 944)
Ngô Quyền sinh năm 897 (Đinh tỵ), quê Đường Lâm (Hà Nội). Người khôi ngô, trí dũng, sức lực hơn người. Ông được Dương Diên Nghệ gả con gái là Dương Như Ngọc và cho trấn thủ Ái Châu, là một vị trí chiến lược quan trọng, vì nơi đây sẽ ngăn ngừa quân Lâm Ấp.
Năm 937, loạn tướng Kiều Công Tiễn giết chết Dương Diên Nghệ, sau đấy nghe lòng dân ai oán và sợ quân lực tinh nhuệ của Ngô Quyền; nên Tiễn lại thần phục Nam Hán. Từ lâu, Lưu Cung là vua Nam Hán đã dòm ngó Giao Châu, nhưng đất Giao Châu nhiều người tài giỏi, can trường gìn giữ thổ cương, đã biết bao lần triều đình Trung quốc đem quân xâm lược, nhưng một thời gian sau bị người Giao Châu quật khởi đánh đuổi, như: Trưng Vương, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế... Giờ đây Kiều Công Tiễn cho sứ cầu cứu, là dịp may. Vua Nam Hán cho điểm binh mã, sai con là Thái tử Hoằng Thao làm tiên phong, chính Lưu Cung dẫn quân hậu viện, ào ạt đem quân xâm lăng nước ta.
Dương Cát Lợi vội vàng báo hung tin cho Ngô Quyền biết. Ngô Quyền ngẫm nghĩ suy tính tình hình, rồi nói: “Trước phải khẩn cấp thanh toán thù trong, để nội bộ thống nhất, sau dùng kế sách đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi”
Ngô Quyền đem quân đến Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn xong, hiệu triệu thiên hạ cùng đồng tâm cứu nước, chuẩn bị chống giặc Nam Hán xâm lăng. Ngô Quyền sai quân dùng cọc nhọn đầu bịt sắt, đóng giữa lòng sông Bạch Đằng, chờ nước thuỷ triều lên đem quân khiêu chiến, rồi giả thua nhử giặc vào giữa cọc trận, đợi lúc thuỷ triều xuống, quân ta phục kích hai bên bờ sông đổ ra rầm rộ, cánh quân ta ở phía trên dòng sông tức tốc quay ngược thuyền lại, đồng loạt phản công mãnh liệt. Lúc ấy gió thổi mạnh, nên sóng nước ào ào như có thiên thần trợ chiến, giúp quân dân ta đuổi giặc cứu nước vì chính nghĩa. Quân ta dùng tên lửa bắn như mưa, thuyền giặc và xác giặc bị chết chìm, chết cháy, trôi lểnh nghểnh chật cả lòng sông, máu đỏ sóng nước.
Hoằng Thao bị bắt và bị giết. Lưu Cung nghe tin con chết, khóc rống thảm thiết, sợ sệt, vội vàng cho rút quân về Nam Hán. Về đến Nam Hán, nghĩ tên Lưu Cung xui xẻo, đổi tên Lưu Yểm.
Ngô Quyền quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, lên ngôi xưng là Ngô Vương, đóng đô ở Cổ Loa (Phúc Yên). Ngô Vương đặt ra quan chức, chế triều nghi, củng cố quân ngũ, quyết tâm dựng nghiệp lâu dài, làm vua được 6 năm thì mất ngày 18 tháng Giêng năm Giáp Thìn, thọ 47 tuổi.
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng đất nước trên quy mô lớn. Đó là kỷ nguyên lẫy lừng của Đại Việt, cũng từ đấy mới có phá Tống, bình Chiêm oanh liệt, đuổi quân Nguyên và quân Minh giòn giã. Cũng từ đấy các triều đại: Lý, Trần, Lê... đã đưa Đại Việt lên rực rỡ.
Sử gia Lê Văn Hưu, bàn về Ngô Quyền: “Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được.
Trong “Việt sử Tiêu án”, sử gia Ngô Thì Sĩ, đã đánh giá: “Trận chiến thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời Đinh, Lê, Lý, Trần sau này nhờ vào uy danh lẫm liệt ấy để lại. Trận Bạch Đằng vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lẫy lừng ở một thời bấy giờ mà thôi đâu”.
*- Thiết nghĩ: Chiến thắng Bạch Đằng giang, có thể coi là trận chung kết toàn thắng của dân tộc Việt Nam trên con đường đấu tranh chống Bắc thuộc và chống đồng hóa. Nhìn vào bối cảnh Bắc thuộc kéo dài trên một nghìn (1000) năm, mới thấy hết ý nghĩa lịch sử vĩ đại của trận chiến này. Hơn nữa, trong hơn 1000 năm Bắc thuộc đó, kẻ thù của dân tộc Việt là một đế chế mạnh bậc nhất ở phương Đông, với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đang lúc phát triển cao độ. Nhà Hán đã chinh phục Bắc Triều Tiên, chiếm đất đai các bộ lạc du mục phía Bắc, mở rộng lãnh thổ về phía Trung Á. Nhà Đường (Tàu) bành trướng về mọi phía, lập thành một đế chế bao la, Đường Thái Tông đã từng tuyên bố: “Ta đã chinh phục được hơn 200 vương quốc, dẹp yên bốn bề, bọn Di Man ở cõi xa cũng lần lượt về quy phục” (theo Đường thư).
Từ đầu công nguyên, dân tộc Hán đã có trên 50 triệu người. Trong khi đó, dân số của Việt Nam chỉ độ 1 triệu. Sau khi chiếm được Việt Nam, mưu đồ của nhà Hán không phải chỉ dừng lại ở chỗ thủ tiêu chủ quyền quốc gia, bóc lột nhân dân, vơ vét của cải, mà còn tiến tới đồng hóa vĩnh viễn dân tộc Việt, sát nhập đất Việt vào nước Tàu. Chính sách đồng hóa là đường lối của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, đã âm mưu thực hiện từ nhà Hán tới nhà Đường. Trong hoàn cảnh cực kỳ hiểm nghèo và thử thách này. Ngô Quyền, người anh hùng tạo ra chiến thắng Bạch Đằng giang năm 938, xứng đáng với danh hiệu là “vị tổ trung hưng” của dân tộc ta, như Phan Bội Châu đã viết trong “Việt Nam quốc sử khảo”.
Cảm bội: Ngô Vương
Nam Hán lăm le cướp nước ta
Giặc ngoài, nội loạn khó dung tha
Thuyền Tàu vướng cọc, tròng trành đắm
Quân Hán trúng tên, lảo đảo sa
Xác giặc lửa thiêu, trôi lểnh nghểnh
Thây thù nước cuốn, nổi hằng hà
Bạch Đằng muôn thuở tan tành giặc(a)
Lẫm liệt Ngô Vương dựng nước nhà
_________________
(a)
- Trận Bạch Đằng giang, do Ngô Quyền chỉ huy diệt quân Nam Hán vào ngày 7 tháng Chạp Mậu Tuất (31-12-938). Nơi đây, năm 1288, Trần Hưng Đạo, một lần nữa đuổi quân Nguyên xâm lăng nước ta lần thứ hai.
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn