Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

THUỞ LAO ĐỘNG

28/02/201300:00:00(Xem: 3736)
Thập niên 1980 và 90, một kẻ vụng về như tôi cũng kiếm được những việc làm tay chân. Tại Philadelphia, tôi sơn nhà, lau kiếng các cửa tiệm và dọn dẹp những căn thuê và văn phòng. Ngày đầu tiên sơn nhà, tôi dựng ngược cầu thang lên tường, miễn cười nhé, nhưng không bị đuổi. Lần khác, bị bia hành, tôi phải trèo xuống cầu thang để ói năm, sáu lần, mà vẫn không bị sa thải. Chủ tôi, Joe LeBlanc chỉ cười ngất. Thậm chí hắn còn trả lương tôi nguyên ngày, rồi cho về sớm.

Thuở đó dễ kiếm ăn, ai nấy rộng rãi hơn, và bo nhiều hơn tại các quán nhậu. Sau giờ làm, tụi tôi thường chui vào The Office, một ba nhảy khoả thân hạng bét, nơi mà bọn lịch sự, choàng complet, không bao giờ đến. Luật Pennsylvania không cho hở nắm vú, nên mấy nàng tiên cứ phải dán, ấn hai ngôi sao nho nhỏ lên đỉnh nhũ hoa. Hạ tầng thì lúc bụm, lúc loé, loé, làm quần chúng loá, loà đôi mắt, quần quật tâm trạng và ký ức. Các em nghe đây, đây là nguồn gốc nhân loại, hỡi ai đi ngang cũng phải cúi đầu, bùi ngùi, lẩm bẩm câu gì cũng được. Xem chán, chúng tôi kéo nhau lại McGlincheys để nốc bia Rolling Rock và uýtki Jameson. Tại The Office, một ả da đen tủm tỉm, “Tao nghe nói bọn Tàu tụi bay có thể làm tình, à, một trăm lần liên tiếp?” Tôi không nỡ nào làm ả vỡ mộng về một niềm tin phấn khởi và dễ thuơng như vậy.

Ngược đời, Joe là một người Canada đã sang Mỹ để nhập ngũ và tham gia chiến tranh Việt Nam. Vừa di cư vừa diệt cộng, lại được cặp một nàng Việt lai Pháp, một công ba chuyện. Có lần hắn thấy một lính Mỹ quăng đồ hộp, thật mạnh, lên đầu con nít Việt Nam. “Việt Cộng can đảm hơn chúng tao,” Joe thú thật. Sau khi bị đạp khỏi quân đội vì lý do kỷ luật, Joe ở đại tại Mỹ, bất hợp pháp. Rời chiến trường vài ngày, hắn bắn bể một đèn đường tại Oakland, Cali. “Tại sao?” tôi hỏi. “Tao đéo biết. Lúc đó tao mát.” Joe mê súng ống, và thường xuyên đến Kentucky để cất một căn nhà vòm, trong một quận hoàn toàn da trắng. Hắn bảo tôi hứng thì xuống chơi, hắn sẽ cho bắn những cây tiểu liên, đủ loại, nhưng tôi chẳng dại gì tạo cơ hội để Joe lên cơn. Tặc tặc tặc tặc! Thấy tôi giữa rừng ôm cây AK-47, Joe xơi tôi luôn thì bỏ mẹ!

Như ai nấy, Joe có lúc ương ương, nhưng hắn thật tốt bụng, tôi cam đoan, bởi vì hắn rất tử tế với nhân viên, vì chịu mướn những kẻ quờ quạng hay chậm hiểu, bởi tuổi tác, bẩm sinh hay thuốc men. Mùa đông ít việc, hắn còn cho tôi vay tiền, đem đến tận nhà, luồn vô kẽ cửa và hai lần hắn còn bảo, “Khỏi!” khi tôi định trả nợ. Joe mướn một cụ, vì lão già này đói há họng. Laura ê hề ký lô, nên Joe cho sơn phết tầng một, để miễn leo thang. Joe mướn một khứa chậm đến nỗi có biệt danh là “Êm Đềm.” Với một miếng giấy nhám, Êm Đềm khều khều chẳng khác gì Marcel Marceau. Là một dạng dược sỹ, thậm chí nhà hoá học cao siêu, bí hiểm, Êm Đềm thích pha trộn nhiều chất thiên nhiên hay hoá học trong cơ thể, nên rất tiếc chết đứng, tại bồn rửa tay, khi chưa đầy 25 tuổi. Tony thì tù 13 tháng bởi buôn ma túy. Hắn và thằng em cứ mỗi tháng lên xe lửa xuống Miami, bốc hàng, nhưng tiền lai láng như Coke, chúng mua xe xì po. Khòm người, mấy ghệ toe toét, khen nước sơn láng. Chúng bể mánh khi bị cò chặn bởi một lỗi giao thông vớ vẩn. Tony chết 35 tuổi. Hắn bảo trong tù, nhiều tên xinh xinh bị rạch lỗ đít bởi lưỡi lam, dĩ nhiên là miễn cưỡng, để thêm trơn tru khi ra vào. Chi tiết này tôi xen vào một truyện ngắn trong quyển Fake House [Nhà Ngụy].
thuo-lao-dong_1_0
Quán bia McGlincheys.
Ai mà chịu làm chủ một đám trời đánh như vầy thì thật là đáng phục, nhưng, như tôi đã bảo, thuở đó kinh tế tốt, và ai nấy đều có việc. Tôi cũng biết Tumi, một khứa Đức lang thang, chuyên di chuyển bằng xe đò Greyhound, và có thể ngồi trên xe buýt ba ngày mỗi chuyến. Khi không lảng vảng tại Phila, hay múa cầu mưa, kiểu da đỏ, tại North Dakota, hắn thường mò đến Santa Monica, nơi hắn ngủ ngoài bãi biển. Sạch túi, Tumi chỉ cần đứng trước tiệm sơn, rồi chỉ không lâu sẽ một người thầu nào đó mướn. Mỗi ngày Tumi chỉ cần đủ tiền để ngốn một bữa bao bụng, rồi nốc bia về chiều. Tên thật của hắn là Ludwig, nhưng đổi thành Tumi vì theo đạo Hồi, tuy Tumi Hồi cỡ nào, hay kiểu nào, tôi cũng không rõ. Tuy không uyên bác gì, Tumi giáo dục tôi, “Mày biết một trái ôliu có nhiều chất đạm bằng một miếng thịt bò bistek?” Rồi, “Phải mất nhiều thời gian lắm mới tạo được một khúc xương. Lâu lắm!” Joe cũng mướn Tumi.

Này nào, Joe không làm từ thiện, mà mần ăn đàng hoàng, và chúng tôi không ù lì hay chơi ma túy trong giờ làm việc. Thậm chí còn cày tối đa, rất là vinh quang, khi không ói mửa. Joe mướn bọn tôi vì thuở ấy thiếu nhân công, nhất là cho những nghề cu li, nhưng bây giờ, bạn phải có bằng đại học chỉ để pha cà phê hay gác cổng bãi đậu xe. Với cả lô người cấu xé dành từng việc làm, sẽ đến lúc một tiến sĩ cũng phải khúm núm, nhắc nhở, “Bà có cần ăn món tráng miệng không?” Hay, “Ông có cần tăm xỉa răng không?” Mấy ả mới lấy bằng Phân Tích Thơ Kiểng Hậu Hiện Đại sẽ phải uốn, éo, ưỡn da thịt trên xân khấu, mỉm, loé, rồi hỏi, “Tao nghe nói bọn Tàu tụi bay có thể làm tình, à, một trăm lần liên tiếp?” Phải nịnh khách mới được bo xịn, đúng không?

Tuần vừa rồi, tôi tạt vào McGlincheys gần 12 giờ trưa. Vắng teo. Nếu bọn mạt rệp không còn tiền để nhấm nháp bia bèo vào giờ ăn trưa, kinh tế quả đang chúi đầu. “Sao không ma nào, Ronnie?” tôi hỏi cha chủ.

“Có mày!”

“À, nhưng vầy không ổn. Ai nấy đâu rồi?!”

“Bây giờ thiên hạ không uống như xưa. Vậy thôi.”

“Tại vì kinh tế!”

“Không phải, không phải. Thiên hạ chỉ không uống như xưa. Xưa, klhông bao giờ có ai vô ba mà không uống bia. Bây giờ thì có.”

“Vô ba mà không uống bia? Nghĩa là sao?”

“Thí dụ bốn thằng ngồi một bàn, sẽ có một hay thậm chí hai thằng không uống gì hết!”

“Thật là vô duyên!”

"Hay là thiên hạ mua bia ở tiệm, rồi đem về nhà uống, khỏi cần vô ba. Về nhà thì dễ phì phà.”

"Ronnie, mày ơi, thiên hạ hút xì ke từ hổi xửa, hồi xưa rồi, đâu phải mới đây!”

"Ừ, có lẽ mày đúng. Có lẽ kinh tế có ảnh hưởng."

Doãn Quốc Vinh, thơ
LỤC BÁT RU HỜI
Tặng riêng cho Mẹ
Dăm ba câu hát ngọt ngào
Đôi dòng lục bát lao xao ru hời
Mà sao đến tận cuối đời...
Con đi chẳng hết những lời mẹ ru...
California 2011
NIÊU CƠM QUÊ NHÀ
Tặng cho người thân ở xa
...
Lạy trời, lạy đất, lạy mây
Lạy cho lúa chín trĩu đầy hạt thơm
Lạy cho xó bếp nhiều rơm
Để tôi thổi chín niêu cơm quê nhà
Mời anh, mời chị ở xa
Ghé chơi... xơi chén cơm cà với tôi
Bát canh bông bí ngọt chồi
Vại dưa, khoanh cá, khúc dồi... chân quê
Dăm năm thu vén bộn bề
Này anh, này chị đường về nhớ chăng ?

California 2007
DOÃN QUỐC VINH
Dĩ nhiên là kinh tế rồi. Một ả bán ba cho chính Ronnie, Aila, bảo tôi dạo này tiền vô xụt một phần ba. Nhiều mặt hồi xưa lại thường xuyên, bây giờ ả chì thấy mỗi tháng cỡ một lần. Chính ả cũng phải dè sẻn, bớt ăn nhà hàng. Chẳng có gì hay ho, phấn khởi trong khi kinh kế bầy hầy.

Đối với một số chủ tiệm, sự thật quá phũ phàng, nên họ cứ bám đại vào tuyên truyền về “phục hồi kinh tế,” lải nhải trên TV và báo chí, trong khi bao nhiêu người chung quanh đã nằm dưới đáy xâu, và chính họ đang đuối sức. Tuy nhiên, là một ba bèo ngay trung tâm thành phố, McGlincheys có thể không những ngáp, ngáp, mà còn sống dai, thậm chí hồi xuân. Khi những ba lẫy lừng chung quanh lăn đùng, những bọn khách kha khá đó, nay cũng bắt đầu chật vật, sẽ mò vào đây. Ngồi trên những ghế cao xiêu vẹo, lòi mút, họ sẽ nhí mắt, nhe răng và hỏi, “Đặc biệt hôm nay là cái gì? Loại bia nào rẻ nhất?”
thuo-lao-dong_2
Phòng thuê một người nghèo tại Philadelphia, không có tủ lạnh, 2009
Lần đầu tiên vào McGlincheys, năm 1982, tôi 18 tuổi. Lúc ấy, một panh Rolling Rock chỉ 80 xu, nay $2.65. Lạm phát là một thuế ngầm, bởi bọn cai trị in tiền bừa bãi. Trên tường, đồng hồ không rõ số, để dân quên thời giờ, thong thả uống bia từ trưa đến chiều, đến 2 giờ khuya, lúc bị đuổi ra ngoài đường, tủi buồn, ngơ ngác, lâng lâng hay dận giữ. Trên tường, xưa chỉ một TV, nay bốn cái, chiếu thể thao liên miên. Vì bị chia trí, thiên hạ khó tập trung vào việc xã hội hay chính trị, khó bàn cãi với nhau. Trong các ba Mỹ, hay thậm chí bất cứ đâu, kể cả Việt Nam, nhạc thường inh ỏi. Trước thời tân tiến, nhạc được xướng lên khi ta vui, ta buồn, nay nhạc bị áp dụng để lấp tư duy. Nhạc thâu đã biến thành một công cụ ngu dân. Một lần tại Brighton, Anh Quốc, tôi mò vào một ba tuyệt đối không chơi nhạc, nên rất dễ nói chuyện, ngẫm nghĩ hay quan sát. Quả là thiên đàng!
thuo-lao-dong_3
Cặp vợ chồng Việt Nam bán trái cây và rau cải tại Chợ Ý, Philadelphia, 2012.
Ba Mỹ thường hiếm khách Á Châu. Khoảng 1990, tôi gặp một người Việt tại McGlincheys. Bùi sống tại Camden, một thành phố tồi bại và nguy hiểm nhất nhì Hoa Kỳ, như Detroit vậy, tuy nhỏ hơn. Bùi làm lò thịt gà, và mỗi tháng, hắn mò sang Phila để chơi đĩ trong phố Tàu. Cựu chiến binh Cộng Hoà, Bùi bị tù sau 75, bị Việt Cộng đánh không còn răng cửa. Viết về Bùi, tôi đăng một truyện ngắn đầu tiên, “555,” và một chi tiết khác về Bùi, tôi cũng xen vào tiểu thuyết Love Like Hate [Yêu Như Ghét hay Yêu Thích Ghét, vì “like” có hai nghĩa]. Tôi giới thiệu Bùi với thằng bạn Joe Banford. Mới qua Mỹ bảy tháng, tiếng Anh Bùi kém, không trò chuyện được, nhưng hắn có bảo Joe, “If someone bother you, I will shot him!” Shoot là bắn, shot là đã bắn, I will shoot him có nghĩa là Tao sẽ đã bắn nó!

Đúng là cuộc đời. Nhiều thứ muốn bắn thì đã chậm rồi, còn nhiều thứ đáng bắn, thì bắn không được. Nhiều khi chưa kịp bắn, thì đã bị bắn rồi.

Đinh Linh

Nhấn Vào Đây Để Tải Tập Tin PDF
THẦN THOẠI RẮN

HUỲNH KIM QUANG

Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn.

Vốn là vùng rừng núi bạt ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng mà là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.

Trong số rắn độc lấy mạng nhiều thổ dân Dravidian nhất là loài mãng xà hung bạo. Chúng không những ở trên mặt đất mà còn ở dưới nước của sông, suối, khe, lạch, ao, mương. Người Dravidian còn cho rằng loài mãng xà có khả năng gọi mưa, thổi gió để trừng phạt con người. Thổ dân sợ loài rắn đó lắm. Họ không biết làm sao để đối phó hay trốn tránh chúng. Họ chỉ biết cầu nguyện. Và rồi họ nghĩ rằng cách hữu hiệu nhất là lập đền thờ rắn để cầu khẩn thần rắn tha mạng cho họ. Thần Nàga xuất hiện từ đó. Nàga không đơn giản là tên gọi một loài rắn bình thường mà còn biểu đạt sức mạnh siêu nhiên của thần linh có khả năng tàn hại hay cứu mạng con người. Huyền thoại Ấn Độ cổ thời cho rằng Thần Brahma rất sủng ái và tin tưởng hoàng tử rắn là Sesha nên giao nhiệm vụ cưu mang và bảo hộ thế giới cho hắn.

Không những thế, huyền sử cổ thời của các dân tộc khác cũng có tục thờ thần rắn, như tại vùng sông Nile của Ai Cập, vùng lưỡng hà của Ba Tư, hay tại lãnh địa của dân tộc Cam Bốt, v.v… Đặc biệt tại Trung Quốc nàga đã hóa thân thành rồng với sắc thái đặc dị và linh thiêng mà các vị vua Trung Quốc đều lấy đó làm biểu tượng cho vương triều của họ. Rồng Trung Quốc về hình thức thì có khác với thần rắn Nàga của Ấn Độ nhưng về đặc tính siêu nhiên và thần thoại thì không khác mấy.

Sử thi Mahabharata (xuất hiện vào thế kỷ thứ 9 trước tây lịch) của Ấn Độ kể chuyện làm sao rắn và diều hâu trở thành kẻ thù truyền kiếp để từ đó xảy ra các cuộc thiêu sống loài rắn. Chuyện kể rằng, ngày xưa vua diều hâu Garuda và rắn Nàga vốn là anh em họ. Nhưng đến đời thánh Kasyapa thì chuyện lục đục giữa hai nhà bắt đầu phát sinh. Lý do là vì ông thánh Kasyapa này có tới 13 bà vợ. Một trong 13 bà vợ đó có 2 bà tên là Kadru và Vinata. Kadru muốn có nhiều con, ngược lại Vinata thì chỉ muốn có ít con nhưng đứa nào cũng phải đầy quyền lực. Rồi thì cuối cùng cả hai bà đều được toại nguyện. Kadru đẻ ra một ngàn con rắn, và Vinata đẻ hai người con mà một người là Surya, thần mặt trời và người con kia là Garuda, con chim diều hâu mang nửa cốt người nửa cốt chim mà thần Vishnu thường cỡi trên lưng bay đi. Trong một cuộc đánh cá mà cổ thi gọi là ngu xuẩn, Vinata bị bắt làm nô lệ cho chị mình là Kadru. Nhưng oái ăm thay, nợ mẹ mà con phải gánh. Do đó, Garuda là con của Vinata đã bị buộc làm theo mệnh lệnh của rắn. Garuda bực tức và đã thề rằng không bao giờ buông tha. Khi Garuda hỏi con rằn làm sao để cứu được mẹ, Vinata bảo Garuda phải mang linh đơn, thần dược bất tử tới. Garuda bèn ăn cắp thần dược từ vị thần và mang tới cho các con rắn để hoàn thành yêu cầu của chúng, nhưng những con rắn đã không thực hiện lời hứa. Từ đó về sau, Garuda xem những con rắn là kẻ thù và bắt để ăn.

Trong cuộc cá độ, để giành phần thắng, Kadru, thủy tổ của rắn, yêu cầu con cháu bà phải tìm mọi cách để cho bà thắng. Nhưng con cháu rắn của bà đã không chịu làm thế, cho nên Kadru nổi giận và thề bắt chúng phải bị chết thiêu trong lễ tế rắn của Vua Janamejaya. Vua Janamejaya sinh ra mang theo mối hận vua cha bị rắn giết nên thề không đội trời chung với loài rắn. Do vậy ông thực hiện lễ thiêu sống rắn gọi là Sarpa Satra. Các cuộc tế lễ thiêu sống rắn được thực hiện bên bờ sông Arind tại Bardan, ngày nay là Parham. Và ngôi đền do Vua Janamejaya xây lên để tế sống rắn ngày nay vẫn còn tại vùng Mainpuri, ở Ấn Độ. Sau đó vị vua rắn Vasuki tỉnh thức trước lời thề và biết rằng những anh em của ông phải cần đến một vị anh hùng để giải cứu. Vasuki bèn đến vị đạo sĩ Jaratkaru với đề nghị kết hôn với nữ thần rắn là Manasa, chính là em gái của Vasuki. Cặp vợ chồng đạo sĩ Jaratkaru và nữ thần rắn Manasa sinh ra người con trai Astika chính là cứu tinh của rắn. Astika đến khuyên can Vua Janamejaya để chấm dứt cuộc tàn sát loài rắn và Vua Janamejaya làm theo.

Khi văn hóa Ấn Độ lan truyền sang vùng Đông Nam Á vào thế kỷ thứ 3 trước tây lịch đi theo đó là làn sóng truyền bá của Bà La Môn Giáo hay Ấn Độ Giáo. Trong số những quốc gia vùng Đông Nam Á hấp thụ nền văn hóa Bà La Môn của Ấn Độ sâu đậm và lâu dài nhất là Cam Bốt.

Rắn Nàga của Ấn Độ khi đến Cam Bốt đã hóa thân thành người. Huyền thoại này kể rằng, người con gái của Vua Rắn Nàga trong một tình cờ đã gặp được chàng thanh niên giòng dõi Bà La Môn của Ấn Độ có tên là Kaundinya. Hai người yêu nhau và lấy nhau, rồi sau đó sinh ra những người con để tạo thành dân tộc Cam Bốt tồn tại cho đến ngày nay. Trong nền văn hóa Cam Bốt, Rắn Nàga được tạc thành tượng 7 đầu để thờ trong các đền thờ như Đền Đế Thiên Đế Thích. Theo văn hóa Cam Bốt, 7 đầu tượng trưng cho 7 màu của cầu vòng. Người Cam Bốt còn giải thích Rắn Nàga có số đầu lẻ tượng trưng cho phái nam với năng lực, vô hạn, vô biên, và bất tử. Rắn Nàga có số đầu chẵn tượng trưng cho nữ giới với thể lực, hữu hạn, tạm bợ và trái đất.

Dân tộc Thái Lan và Lào cũng tôn thờ thần rắn nàga vì họ cho rằng thần rắn nàga là chúa tể cai quản dòng sông Mekong. Hàng năm người dân Thái Lan và Lào đều tổ chức lễ cúng tế thần rắn nàga. Người dân Thái và Lào sống dọc theo sông Mekong tin rằng cúng tế thần rắn nàga sẽ được thần rắn bảo hộ tai qua nạn khỏi lúc làm ăn trên sông, trên nước. Mỗi năm vào ngày 15 tháng 11 theo lịch Lào, một buổi lễ cúng tế thần rắn nàga được tổ chức trọng thể tại quận Phonephisai thuộc tỉnh Nong Khai của Thái Lan với pháp bông rực rỡ vào ban đêm.

Rắn nàga hóa thành người ở Cam Bốt và được tôn làm thần linh ở Ấn Độ, Thái Lan, Lào là huyền thoại đầy bí nhiệm, nhưng vẫn chưa bằng huyền thoại rắn nàga thành Phật trong kinh Phật. Tuy nhiên, trước khi kể chuyện rắn nàga thành Phật, xin kể về chuyện rắn nàga giữ kinh Phật ở thủy cung hay long cung.

Chuyện là thế này, lịch sử Phật Giáo Ấn Độ có một nhân vật mà sau này được tôn xưng là đệ nhị Thích Ca, tức là chỉ đứng sau đức Phật Thích Ca mà thôi. Nhân vật đó là Bồ Tát Nàgarjuna (xuất hiện vào thế kỷ 2 sau tây lịch tại miền nam Ấn Độ) mà các nhà Phật học Trung Quốc dịch là Long Thọ. Bản thân của ngài Long Thọ chứa đầy những huyền thoại ly kỳ mà cho đến nay các nhà sử học cũng không có cách lý giải. Ngài Long Thọ là người truyền bá tư tưởng Phật Giáo Đại Thừa mạnh mẽ và hữu hiệu nhất tại Ấn Độ đặc biệt là hệ thống giáo nghĩa về Bát Nhã Tánh Không. Chuyện kể rằng khi chưa xuất gia đầu Phật, ngài Long Thọ là người bác học tinh thông mọi thứ từ triết lý tư tưởng, tôn giáo đến y học, thuật số và phép tắc thần thông. Ngài đã từng chữa lành bệnh nan y cho nhiều người. Sau khi xuất gia ngài thông suốt khắp các kinh luận của những bộ phái Tiểu Thừa và biện tài vô ngại. Tiếng đồn thấu tới tận long cung của vua rắn Nàga. Vua rắn Nàga mới cho người thỉnh ngài Long Thọ xuống long cung để trao kinh Phật. Nguyên là khi đức Phật còn tại thế đã giao cho vua rắn cất giữ bộ Kinh Bát Nhã ở long cung chờ đến khi có đủ duyên và người xứng đáng để trao lại. Ngài Long Thọ xuống long cung và được vua rắn Nàga dẫn vào thư phòng chứa bộ Kinh Bát Nhã để giới thiệu. Ngài Long Thọ ở lại mấy tháng để đọc bộ Kinh Bát Nhã này và nằm lòng trong bụng. Sau khi trở về nhân gian, ngài Long Thọ chép lại Kinh bằng tiếng Phạn và viết nhiều bộ luận để xiển dương giáo lý Bát Nhã Tánh Không của Đại Thừa. Trong số các bộ luận do ngài Long Thọ sáng tác có nhiều bộ rất phổ biến và còn lưu truyền đến ngày nay như Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận, Đại Trí Độ Luận, v.v…

Bây giờ xin kể chuyện con gái của vua rắn nàga thành Phật. Chuyện này được kể trong Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa - Mahayana Saddharma Pundarika Sutra, phẩm Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) thứ 12 theo bản dịch Hán ngữ của ngài Cưu Ma La Thập - Kumàrajìva -- từ bản tiếng Phạn vào năm 406 sau tây lịch tại Trung Quốc. Bộ Kinh này cũng đã được dịch sang tiếng Việt bởi Hòa Thượng Thích Trí Quang và Hòa Thượng Thích Trí Tịnh. Bản dịch sau được phổ biến rộng rãi trong các Chùa Việt. Kinh kể rằng trong Hội Pháp Hoa, Bồ Tát Trí Tích hỏi Bồ Tát Văn Thù (Manjusri) lâu nay ở trong thủy cung của vua rắn đã độ được bao nhiêu con rắn. Bồ Tát Văn Thù nói rằng ngài đã thuyết Kinh Pháp Hoa và độ vô số chúng sinh trong loài rắn. Khi ngài Văn Thù nói như vậy thì có vô số bồ tát từ dưới biển vọt lên và đến núi Linh Thứu nơi đức Phật đang nói Kinh Pháp Hoa. Bồ Tát Trí Tích hỏi lại Bồ Tát Văn Thù rằng Kinh Pháp Hoa là vua trong các Kinh nội dung cao sâu vi diệu không phải ai cũng có căn cơ đủ để tu hành mà thành Phật mau được. Ngài Văn Thù liền kể rằng có người con gái của vua rắn ở long cung mới có 8 tuổi mà "căn tính lanh lẹ, có trí tuệ, khéo biết các căn tính hành nghiệp của chúng sinh, được pháp tổng trì, các tạng pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có thể thụ trì, sâu vào thiền định, rõ thấu các pháp. Trong khoảnh sát na phát tâm Bồ Đề được bậc bất thối chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sinh như con đỏ, công đức đầy đủ, lòng nghĩ miệng nói pháp nhiệm mầu rộng lớn, từ bi nhân đức khiêm nhường, ý chí hòa nhã, nàng ấy có thể đến bồ đề."

Khi ngài Văn Thù kể đến đó thì Bồ Tát Trí Tích không tin, vì ông phát biểu cảm nghĩ rằng đức Phật Thích Ca cũng đã trải qua vô lượng vô số kiếp tu hành khổ hạnh thì mới thành Phật được, lẽ nào một con rắn con mới có 8 tuổi lại có thể mau thành Phật như thế. Trong lúc Bồ Tát Trí Tích còn đang giải thích suy nghĩ của mình cho ngài Văn Thù nghe thì con gái của vua rắn hiện ra trước pháp hội đến đảnh lễ đức Phật và đứng qua một bên. Lúc bấy giờ ngài Xá Lợi Phất là đệ tử có trí tuệ đệ nhất của đức Phật Thích Ca còn nghi ngờ chuyện con gái vua rắn thành Phật nên hỏi người con gái của vua rắn rằng, việc đó có đúng như vậy chăng. Con gái vua rắn không nói gì mà đem hột minh châu đắt giá tặng cho đức Phật Thích Ca. Đức Phật tức thì hoan hỷ nhận hạt minh châu của cô bé con vua rắn. Cô bé rắn quay qua ngài Xá Lợi Phất và Trí Tích Bồ Tát hỏi rằng việc cô tặng hạt minh châu và Phật nhận có mau không? Cả hai vị đều nói là rất mau. Cô bé rắn giải thích với 2 vị này rằng việc cô thành Phật còn mau hơn nhiều. Và rồi cô bé con vua rắn tức thì biến thành thân con trai và bay qua cõi nước Vô Cấu ở phương nam, ngồi lên tòa sen và thành Phật với ba mươi hai tướng tốt không khác gì các đức Phật. Bồ Tát Trí Tích và ngài Xá Lợi Phất chỉ còn biết im lặng và tin là thật mà không nói được lời nào.

Truyền thuyết về con rồng cháu tiên của dân tộc Việt có phải cũng từ huyền thoại rắn nàga mà ra và người Việt Nam phải chăng cũng là con cháu của nhà rắn thần linh này? Dẫu sao thì dòng dõi Lạc Hồng cũng hơn các dân tộc khác ở chỗ có một nửa cốt cách là tiên.

Huỳnh Kim Quang

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tác giả tên thật David Huỳnh, cư dân Los Angeles, là một "chức sắc" của Hội Đi Câu tại Hoa Kỳ, từng nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012 với loạt bài kể chuyện đi câu đủ nơi, đủ loại, từ cá sấu gar Houston tới cá tầm California, câu tới Alaska, sang Mễ, qua tận Thái Lan, và nay thì câu về đến quê cũ.
Trương Ngọc Anh (hình bên) đã nhận giải bán kết Viết Về Nước Mỹ 2002. Bài và hình ảnh được thực hiện theo lời kêu gọi của chương trình Foodbank tại Quận Cam: "Nếu biết ai đó cần sự giúp đỡ, xin vui lòng hướng dẫn vào chương trình trợ giúp của chúng tôi."
Nếu viết về con rồng, thật dễ có văn chương bay bướm, kiến thức bao trùm thiên hạ, ai đọc cũng phục lăn. Vì sao? Vì con rồng chẳng hề có trên thế gian, chẳng ai thấy, nên cứ viết tào lao thiên địa, không ai bắt bẻ được. Giống như chuyện ma. Có hàng triệu chuyện ma mà chẳng ai thấy ma bao giờ.
Alice Springs? Gớm! Cái phố nhỏ như mắt muỗi, có đốt đuốc cháy mười ngày cũng chẳng nom thấy đâu trên bản đồ nước Úc.
"Hơn bốn mươi năm sau khi xuất hiện, Dương Nghiễm Mậu vẫn còn là nhà văn avant-garde đối với văn học Việt Nam bởi những suy tưởng và cách đặt vấn đề của ông vẫn còn nguyên những mấu chốt bí mật, nhiều truyện ngắn với lối cấu trúc rất lạ, chưa ra khỏi vòng trăn trở tìm tòi của người viết hôm nay." (Thụy Khuê viết về Dương Nghiễm Mậu, Con Người Nội Soi)
Nếu bạn có một người yêu, yêu rất yêu, bạn có muốn nói về người ấy không, có muốn giới thiệu người ấy cho cả “thế giới” biết không. Tôi chắc chắn bạn sẽ “lật đật” nói rằng có. Không cần hỏi, tôi đã thấy cả triệu người trên mặt đất này đã và đang làm việc đó.
Tác giả tên thật Vũ Văn Cẩm; Vượt biển năm 1981. Đến Mỹ 1982, hiện là cư dân Oklahoma từ 2003. Nghề Nghiệp: Electrical Engineer. tại Công Ty American Airlines, M&E Center, Tulsa, OK. Bài viết -trích từ Việt Báo Tết QWuý Tỵ - là một chuyện tình đẹp.
Tác giả là một luật gia và nhà hoạt động văn hoá xã hội của miền Nam trước 1975. Ông sinh năm 1934, tại Nam Định. Tốt nghiệp Đại học Luật khoa Saigon 1958. Du học tu nghiệp tại Mỹ 1961-62. Nghề nghiệp tại Saigon: Chuyên gia luật pháp tại Quốc hôi VNCH (1958-62),
Anne Khánh Vân, sinh năm 1974 tại Saigon, tốt nghiệp kinh tế tại Pháp, hiện sống và làm việc tại miền Đông Hoa Kỳ. Năm 2007, cô nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ với tự truyện “Duyên Nợ Với Nước Mỹ.” Mới đây, Khánh Vân đã hoàn tất việc đón ba má, và vợ chồng người em trai sang đoàn tụ. Bài tết năm nay của cô là chuyện vui.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.