Hôm nay,  

Tránh Bay ‘Vùng Cấm Bay’ tại Libya

12/03/201100:00:00(Xem: 11337)

Tránh Bay ‘Vùng Cấm Bay’ tại Libya

Nguyễn Xuân Nghĩa

Hoa Kỳ bị dụ vào Libya"

Câu hỏi trên là thời sự nóng trong chính trường Hoa Kỳ.

Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Thương viện do đảng Dân Chủ kiểm soát là Nghị sĩ John Kerry đã nói thẳng và hôm Thứ Sáu còn viết trên tờ Washingtonh Post là quốc tế phải ban hành lệnh cấm bay trên lãnh thổ Libya. Nếu thế thì nguy!

Người Mỹ đáng yêu vì ưa xúc động về mọi chuyện thương tâm của thế giới. Khi tay chân lãnh tụ Moammar Gaddafi cho Không quân pháo kích vào thường dân, một số lãnh tụ và bình luận gia bên đảng Dân Chủ đòi nước Mỹ phải làm gì đó. Có khi lại tìm về truyền thống của đảng là thích nhảy khai chiến vì mục tiêu lý tưởng ban đầu. Sau đó bị kẹt.

Nhìn ra ngoài nước Mỹ, trong khi dư luận Mỹ phân vân, Âu Châu còn nâng mức xúc động lên một cấp: "Thế giới phải làm gì đi chứ!" Các nước Á Rập cũng thế, đã lên tiếng yêu cầu can thiệp. Vì vậy, Chính quyền Barack Obama bị sức ép. Cho đến nay, ông nói nước đôi, rằng thế giới cần can thiệp, và rằng Hoa Kỳ không loại bỏ giải pháp quân sự.

Trước hết, hãy nghĩ tới mục tiêu của các nước Âu Châu ở bên kia Địa trung hải.

Họ đang nhìn về Libya với nhiều nỗi lo. Nguồn cung cấp dầu khí từ xứ này là một, dù có Saudi Arabia hay nước khác thay thế thì cũng vẫn là vấn đề vì thay không dễ - “dầu thô Libya thuộc loại ngọt", có độ sulfure rất thấp. Nhưng, nguy ngập hơn vậy là nếu Libya lâm vào nội chiến kéo dài, một làn sóng thuyền nhân tỵ nạn có thể dạt vào Âu Châu. Nếu bên trong đám thuyền nhân lại có đặc công hay khủng bố Hồi giáo từ Bắc Phi, thì Âu Châu gặp cả hai bài toán nhân đạo và an ninh.

Vì vậy, họ muốn "quốc tế" can thiệp vào Libya.

Quốc tế nhất là Liên hiệp quốc thì vô thẩm quyền: Liên bang Nga và Trung Quốc mẫn cán thủ vai kỳ đà cản mũi với lá phiếu phủ quyết trong Hội đồng Bảo an. Tuần qua, Tổng thống Dmitri Medvedev của Nga nói ra điều ấy. Một nghị quyết của Liên hiệp quốc chỉ có hy vọng thành hình nếu có đủ "hệ số vu vơ", những cáo giác vô hại và biện pháp vô hiệu.

Sau nỗ lực vận động Liên hiệp quốc thì giải pháp quốc tế thứ hai là dùng Minh ước Bắc Đại Tây Dương NATO.

Năm 1999, sau nhiều năm trì hoãn, Âu Châu dùng cơ chế NATO cho việc cấp cứu Kosovo trong Cộng hòa Serbia để thay thế giải pháp bất khả là Liên hiệp quốc. Mà NATO chính là Hoa Kỳ và Chính quyền Bill Clinton đã chấp hành! Lần này cũng thế, nếu tìm ra một giải pháp đồng thuận quốc tế - để có chính nghĩa - Hoa Kỳ sẽ lại phải dẫn đầu lực lượng liên quân NATO can thiệp vào Libya. Tuần tới, 28 thành viên NATO sẽ cân nhắc việc này.

Chúng ta nhớ lại là sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, NATO đã qua ba đợt tái xác định mục tiêu, vào các năm 1991, 1999 và năm ngoái. Tại hội nghị Lisbone vào tháng 11 năm ngoái, NATO loay hoay lúng túng khi với "Khái niệm Chiến lược" mới vì trong thực tế lá chắn này bị chia làm ba mảnh.

Các nước phía Bắc như Anh, Đan Mạch và Hoà Lan, thì ủng hộ chiến lược Bắc đại tây dương nguyên thủy - của Hoa Kỳ: NATO có mục tiêu "toàn phương vị", mở rộng sự can thiệp vào bất cứ nơi nào đe dọa an ninh và quyền lợi của 28 thành viên. mảnh thứ hai là các nước cột trụ của Tây Âu, như Đức, Pháp, Ý, thì nhấn mạnh đến mục tiêu nguyên thủy: phòng ngừa Liên Xô tấn công. Ngày nay, Nga hết là mối nguy mà còn là nguồn cung cấp năng lượng, nên nhóm Tây Âu cho rằng NATO cần hợp tác với Liên bang Nga và nên phòng ngừa một đợt tấn công từ xa hơn, từ một xứ Hồi giáo tại Trung Đông. Khối thứ ba là các nước Đông/Trung Âu, xưa kia từng là nạn nhân của cả Nga lẫn Đức, ngày nay vẫn coi sức ép của Liên bang Nga là mối nguy đáng sợ nhất. Họ cần tới sự cam kết bảo vệ của Hoa Kỳ trước trào lưu thỏa hiệp của các nước Tây Âu.

Giữa ba ngả, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy còn có sáng kiến thứ tư: xây dựng thế hợp tác quân sự trong khu vực Địa Trung Hải, giữa các nước Âu châu với các nước Bắc Phi và Trung Đông. Tất nhiên là Pháp sẽ lãnh đạo cơ chế đó! Nhưng sáng kiến này vẫn chưa thành hình.

Một nỗi niềm chung trong mấy ngả riêng tư đó là ngần ấy thành viên NATO tại Âu Châu đều trông cậy vào sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ, quốc gia nhiều phương tiện và đóng góp nhiều nhất cho NATO, nếu so sánh chi phí quốc phòng với lợi tức trung bình một đầu người.

Nhưng bây giờ, nhân danh cái gì mà NATO nhảy vào Libya: nhân đạo hay bảo vệ hòa bình" Khi vấn đề được nêu lên, Ba Lan lập tức bày tỏ sự nghi ngờ về việc can thiệp.

Cho nên, vì giải pháp lý tưởng là Liên hiệp quốc đã khó thành, các nước vẫn phải nghĩ đến tấm khiên NATO. Nếu có thêm lời kêu gọi của Liên minh Á Rập thì vẹn đôi bề. Giới hữu trách NATO đang nghiên cứu khía cạnh pháp lý và ngoại giao và tuần tới sẽ quyết định về việc ấy.

Sau khi vượt qua trở ngại đó thì "cộng đồng quốc tế" (Mỹ) sẽ ban bố tình trạng "cấm bay" trên không phận Libya, ít nhất là trên các khu vực mà không quân của Gaddafi có thế tấn công phe nổi dậy - hay tàn sát thường dân. Chúng ta đi vào chuyện "cấm bay" nhiều người đang đề nghị.

Đấy là cái bẫy trơn trượt!

Ngoại trưởng Hillary Clinton sáng suốt nhìn ra nên lập tức "lại quả" cho Âu Châu: Hoa Kỳ sẽ không nên lãnh đạo việc thi hành lệnh cấm bay đó. Tổng trưởng Quốc phòng Robert Gates còn dè dặt hơn với giải pháp quân sự. Trong cuộc họp báo sáng Thứ Sáu 11, Tổng thống Obama phải phóng ra một tín hiệu rất mạnh với chế độ Gaddafi, nhưng cũng không nói rõ về những chọn lựa quân sự cụ thể - cấm bay hay không.

Có phải ăn cỗ đâu mà đòi đi trước!

Người ta cần ngẫm lại và tự hỏi xem cái gì sẽ cấm phi cơ Libya của Gaddafi cất cánh" - Dĩ nhiên là phi cơ quốc tế dưới sự chỉ huy của Hoa Kỳ. Âu Châu hàm ý là Mỹ sẽ lãnh nhiệm vụ tiên phong và Ngoại trưởng Clinton hay Tổng trưởng Gates không mơ hồ dại dột vì cái gì sẽ chặn các phi đoàn của quốc tế"

Đó là hệ thống phòng không của Gaddafi.

Nhờ các cường quốc Âu Châu bán cho Libya để mua dầu, hệ thống đó không chỉ là cao xạ hay đại liên mà còn có hỏa tiễn địa-không khá tối tân với khả năng di động cao. Vì vậy, liên quân quốc tế - vẫn lại là Mỹ - chỉ có thể thi hành lệnh cấm bay sau khi mở chiến dịch tiêu diệt hệ thống phòng không của địch. Rất hợp lý mà hơi rủi ro: có bay vào thì mới biết hư thực ra sao.

Muốn biết thì phải có tin tức tình báo, vốn đang là món hàng rẻ, mà... thiếu phẩm chất. Tin tình báo không đáng tin vì các nhóm nổi dậy đều muốn quốc tế nhảy vào nên chỉ chỏ lung tung. Trong khi phe Gaddafi lại có khả năng di động và ngụy trang. Chưa kể là một số lực lượng sắc tộc còn cướp được đại liên và bắn loạn khi thấy bất cứ cái gì bay trên trời: quân mình bắn quân ta!

Mà nếu liên quân pháo lộn thì quân mình bắn dân ta.

Vốn dĩ coi dân như phân bón, Gaddafi sẽ yểm võ khí trong khu đông dân để lấy dân đỡ đạn. Nếu thường dân chết oan vì bị oanh tạc lầm, chính nghĩa quốc tế bị mất giá. Giải pháp quân sự gây vấn đề ngoại giao, như Hoa Kỳ và NATO đã từng gặp tại A Phú Hãn. Và Hoa Kỳ sẽ lại lãnh búa rìu dư luận Hồi giáo và các nước chống Mỹ lẫn các tổ chức nhân quyền.

Mà cấm bay đến cỡ nào và bao giờ thì đủ"

Xưa kia, Liên hiệp quốc từng ban hành chế độ cấm bay trên lãnh thổ Iraq của Chính quyền Saddam Hussein để bảo vệ cư dân trên khu vực sinh hoạt của người Kurd tại miền Bắc và Shia ở miền Nam. Chính quyền Bill Clinton thi hành nghị quyết đó trong nhiều năm - dưới lá cờ chính nghĩa của Liên hiệp quốc - mà không làm Saddam thay đổi chủ trương hung đồ hoặc chấm dứt chà đạp nhân quyền.

Sau 12 năm cù cưa, Saddam chỉ bị lật khi Mỹ đổ quân vào năm 2003! Gaddafi cũng có thể tính vậy...

Nghĩa là giải pháp mà quốc tế đang kêu gọi và Chính quyền Obama đang cân nhắc có thể gây rủi ro tổn thất cho Hoa Kỳ về quân sự tới nhân đạo và ngoại giao. Mà chưa chắc đã đạt mục tiêu. Rồi vì đã lao vào cuộc mà không có kết quả, nhiều người sẽ thấy rằng chỉ còn giải pháp dứt điểm chế độ Gaddafi. Đổ quân vào lãnh thổ Libya!

Người ta lại nhớ đến nhiều trường hợp can thiệp như vậy. Việc Thủy quân Lục chiến Mỹ vào Đà Nẵng hồi tháng Ba năm 1965 là một thành tích khó quên của một Chính quyền Dân Chủ!

Mà thả quân vào Libya để làm gì"

Sau 12 năm cấm bay tại Iraq mà không nên chuyện, Chính quyền George W. Bush đổ quân vào Iraq với mục tiêu là làm thay đổi chế độ tại Baghdad. Lật đổ Saddam Hussein thì dễ, xây dựng chế độ khác là chuyện triền miên! Bây giờ, muốn lật đổ Gaddafi và tay chân trên một quốc gia rộng lớn và phức tạp như Libya - một triệu 770 ngàn cây số vuông với nhiều sắc tộc khác nhau - Hoa Kỳ phải có đủ quân thì mới gây được động lượng và có kết quả. Lấy quân ở đâu"

Sau đó là hậu quả xây dựng dân chủ và tái thiết quốc gia, còn đắt đỏ hơn giải pháp quân sự ban đầu.

Mà để làm gì" Câu hỏi đó vẫn chưa có giải đáp. Vì lý do nhân quyền hay xăng dầu" Vì bảo vệ sự ổn định hay phát huy dân chủ tại Trung Đông" Hay là vì nếu Libya tanh bành thì sẽ thành hậu cứ của khủng bố nối dài qua Algérie, xuống tới Yemen VÀ trải rộng xuống 14 nước Phi châu thân chủ của Gaddafi" Trong chuỗi vấn đề rắc rối này, và có khác biệt giữa vị trí của Bắc Phi với vị trí của Trung Đông, quyền lợi Hoa Kỳ nằm ở đâu"

Không lạnh lùng xác định mục tiêu mà nhảy vào Libya thì sẽ thấy ngần ấy lực lượng đang có đầy võ khí sẽ nhân dịp chống Mỹ cứu nước để tranh thủ dư luận quần chúng của họ!

Ở nhà, loại mục tiêu di động và mù mờ đó sẽ gây tranh luận trong chính trường Mỹ, và ở ngoài, Hoa Kỳ lại bị chính các đồng minh kết án là hung hăng can thiệp vào xứ khác! Lại bài học của Bush...

Ngoại trưởng Clinton và Tổng trưởng Gates tỏ vẻ không muốn nhảy vào cõi cấm bay. Nhưng ở trên, Tổng thống Barack Obama lại muốn bay bổng vào chuyện khác, có khi lại bùi tai chơi dại! Chuyện rất đáng theo dõi...

Ý kiến bạn đọc
12/03/201106:25:17
Khách
The cost of do nothing is always higher than do something.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.