Văn Hóa Dân Tộc
Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh
Từ ngữ "văn hóa" rất thông dụng trên báo chí Việt ngữ từ hơn mộït trăm năm qua, nay cũng nên nhìn cho rõ ý nghĩa bao quát của chữ này. Chữ Văn hóa dịch từ Anh ngữ "culture" mà gốc của nó là để chỉ công việc trồng trọt, nhưng cả thế giới còn dùng chữ này để chỉ sự phát triển, cải tiến hay thanh lọc cho tao nhã sự hiểu biết, ngôn ngữ và hành động qua những biểu tượng như nghệ thuật, văn học, văn chương và cũng có ý nghĩa cả về việc bồi dưỡng cho cơ thể con người nói chung.
Tóm lại văn hóa là những di tích được ghi lại trong lịch sử nhân loại, nó luôn luôn tiến, biến chuyển chớ không bao giờ dậm chân tại chỗ. Nhưng cái gốc của quá khứ đó rất cần cho hiện tại để con người tiến lên,đồng thời định hướng cho những bước đi sắp tới của tương lai. Đó chính là thế "dịch" trong kinh sách của các dân tộc Á châu. Trên đây chỉ là chuyện văn hóa của con người nói chung kể từ buổi sơ khai, nhưng chúng ta đều biết trên thế giới ngày nay có nhiều dân tộc khác nhau về nguồn gốc, mầu da, nòi giống. Ở đây câu chuyện trở thành rất phức tạp vì từ hàng chục ngàn năm trước, khi loài người hết thời bộ lạc du mục để sống tập hợp thành những dân tộc khác nhau với định chế xã hội cũng khác nhau về chính trị, kinh tế và bước tiến văn hóa nhanh hay chậm khác nhau, sự tranh chấp và xung đột đẫm máu vì tính vị kỷ và lòng tham của các cá nhân đã nẩy sinh.
Hãy nhìn đến văn hóa dân tộc của chính chúng ta, người Việt Nam. Cũng như nhiều nước khác ở Âu Mỹ, nước Việt Nam từ thời cận đại đã có quan hệ mật thiết với những nước láng giềng. Chính vì mối quan hệ này, về mặt văn hóa đã có những sự trao đổi về ngôn ngữ văn tự và nghệ thuật. Việt Nam và Trung Hoa cũng nằm trong hoàn cảnh này. Sử sách còn ghi chúng ta xuất phát từ các dân tộc gọi là Bách Việt, một số gọi là Lạc Việt ở 3 quận Nam Hải khoảng 437 Trước Công Nguyên (TCN), địa danh này còn được gọi là Ngũ Lĩnh, ở miền Nam tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc ngày nay. Ngọn núi thứ ba của Ngũ lĩnh ở đất Cửu Chân nay là Thanh Hóa của nước chúng ta. Chính vì thế chúng ta vẫn tự xưng là Lạc Việt để ghi nhớ gốc gác của mình. Chúng ta nhiều khi còn nhấn mạnh đến hai chữ Lạc Hồng để tưởng nhớ đến giòng vua cổ nhất của chúng ta là giòng họ Hồng Bàng cai trị từ 2877 đến 288 TCN.
Đến đời Hán Võ đế bên Tầu, vùng Lạc Hồng bị quân Hán chiếm năm 111 TCN và đặt tên là quận Giao Chỉ, cai trị bởi một cơ quan gọi là An Nam đô hộ phủ. Đây cũng là thời của hai Bà Trưng Trắc và Trưng Nhị khoảng hơn 2,000 năm trước đây. Từ thời này, nền văn hóa của chúng ta về mặt từ ngữ đã có chữ Hán, nhưng về ngữ âm nguời Việt chúng ta đã có cách đọc khác nên về sau các bậc tiên hiền đã đổi là chữ Nho tức chữ Hán đọc theo Âm Việt. Tôi nhắc đến thời xa xưa đó để nhấn mạnh dân tộc Việt Nam là một dân tộc độc lập chống ngoại xâm, nhất là muốn nêu gương tiết tháo của những vị nữ anh hùng như bà Trưng bà Triệu đã đánh đuổi lũ giặc Tầu như thế nào.
Riêng về mặt văn hóa, Việt Nam có nhiều điểm đặc biệt. Như hoàn cảnh của những nước làng giềng sống sát bên nhau chúng tôi đã trình bày ở trên, ở miền Đông Á có ba nước là Việt Nam, Nhật Bản và Hàn quốc chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc trong một thế gần như tương tự nghĩa là dùng chữ Hán, nhưng cả ba đều có thanh âm riêng của dân tộc để đọc chữ Hán chớ không đọc hay nói hay viết theo tiếng Tầu. Riêng Việt Nam có lợi thế hơn, vì tiếng Nhật Bản không có ngữ âm sắc huyền hỏi ngã nặng như tiếng ta nên phải dùng ngôn ngữ đa âm để trình bày, trong khi tiếng Việt chỉ cần một âm là có thể nói lên một ý nghĩa nào đó. Trong khi Hàn quốc có âm thanh lên bổng xuống trầm một ít như tiếng Tầu, nhưng về những chữ vần đầu lại thiếu cũng như tiếng Nhật vần đầu cũng thiếu, chẳng hạn thiếu vần "l" (e-lờ) mà chỉ có vần "r". Thành ra một cô gái Nhật nói tiếng Anh với một chàng trai Mỹ, thay vì nói "I love you" lại biến thành I "rô"-vơ you. nghe tức cười vô cùng. Tóm lại về việc học tiếng nước ngoài, người Việt Nam có cơ may dễ học hơn và nói đúng giọng hơn các dân tộc Á châu khác đi học ngoại ngữ.
Văn hóa của mỗi dân tộc đều có những nét đặc thù khác nhau, nhưng tất cả đều giống nhau ở một điểm then chốt. Văn hóa của một dân tộc là linh hồn của dân tộc đó. Nếu không có linh hồn, cái thây ma sẽ nát rữa rồi trở thành cát bụi và biến mất trong thời gian ngắn. Lịch sử thế giới cận đại đã cho thấy những dân tộc làm mất văn hóa của chính mình sẽ trở thành dân thiểu số không có nước, lâu dần pha trộn với dân tộc chính xứ quốc gia sẽ trở thành lai căng với hai ba giòng máu, như vậy là tự đưa gốc gác, hình dạng tiên khởi của dân tộc mình vào quên lãng giống như cát bụi trở thành cát bụi.
Vậy mà kỳ lạ thay trong thế kỷ trước lại có những người sẵn sàng loại bỏ nền văn hóa truyền thống của nước mình để chọn một nền văn hóa khác lạ có tên là văn hóa xã hội chủ nghĩa, văn hóa cộng sản theo chủ nghĩa Mác-Lê của nước Nga. Đó là những người đã đem bán linh hồn của chính dân tộc mình để đổi lấy bằng máu một thứ linh hồn ngoại lai, hồn chẳng ra hồn, ma chẳng ra ma mà chỉ là quỷ đó thôi. Ở nước láng giềng là người anh em phương Bắc của những người Cộng sản Việt Nam, người ta đã thấy vụ đem linh hồn dân tộc đổi lấy quỷ khát máu diễn ra như thế nào khi Mao Trạch Đông ra lệnh thực hiện cuộc Cách mạng Văn hóa Vô sản. Cuộc cách mạnh đó thiêu sống hàng triệu người, nhưng cố nhiên rồi chính nó cũng phải chết, vì thiếu linh hồn bất cứ nền văn hóa nào dù có tô son trát phấn bằng máu cũng chỉ yểu tử.
Ở Việt Nam trước năm 1975, những người Cộng sản làm chủ miền Bắc đã thực hiện cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu, bước đi tập tễnh đầu tiên để bán văn hóa dân tộc, bán linh hồn cho quỷ đỏ. Hậu quả có liền tức khắc, vì sau khi họ chiếm miền Nam, hàng triệu người dân đã bỏ nước ra đi. Ngày nay thời thế đã đổi khác, thế kỷ 20 chỉ là bài học của quá khứ. Bộ máy tiến hóa của loài người đã gia tốc phi thường trong lãnh vực hàng đầu của trí tuệ là khoa học kỹ thuật. Bước tiến của 10 năm đầu của Thế kỷ 21 đã nhanh bằng hay hơn 100 năm của Thế kỷ 20. Trí tuệ của tuổi trẻ ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam đã vươn lên cao nhờ những phương tiện truyền thông kỳ diệu nhất đạt được ở đầu năm 2010. Bộ óc của con người, linh hồn của nhân loại định hướng được cho tương lai Thế giới của cả một trăm năêm tới. Đó là hướng đi bất di dịch, không một loại ma quỷ nào cản nổi, kể cả một thiểu số vì tham danh tham lợi vị kỷ vẫn cố níu lấy chức vị trong bất cứ loại chính quyền nào gọi là dân chủ ở Đông cũng như Tây trên thế giới ngày nay.