Hôm nay,  

Bãi Chiến Trường

10/12/200800:00:00(Xem: 6618)
BÃI CHIẾN TRƯỜNG
Hạnh Chi
Tựa bài viết có vẻ bạo động quá, nhưng xin thưa ngay, đây chỉ là bãi chiến của tâm, không có gươm đao chém giết gì cả.
Nhưng ai bảo bãi chiến này không khốc liệt bằng bãi chiến của những đối tượng thù nghịch, quyết tiêu diệt nhau bằng khí giới thế gian"
Trong kinh Phạm Võng hình như có dạy đại khái thế này: "Niết-bàn tùy thuộc nơi khả năng buông bỏ của mình. Dù ta có gạn lọc phiền não, an trú được trong hiện tại nhưng nếu tâm ta vẫn phải cẩn thận theo dõi xem phiền não đã đi chưa" an lạc đã tới chưa" Và nếu an lạc đã tới thì phải vội vã nắm bắt ngay, thì đấy chưa thực là Niết-bàn"
Chúng ta thường dễ dàng chấp nhận cái tương đối bằng khái niệm "không có gì tuyệt đối". Nhưng thực tế, định lực, trí lực của ta thường nhiều hơn ta tưởng, như người đang đau chân, đi khập khiễng, chậm chạp nhưng nếu bất ngờ bị kẻ gian rượt đuổi thì người ấy sẽ chạy rất nhanh, rất khỏe, quên hẳn cái chân đau, vì khi ấy là chạy để sống còn! Chỉ khi đã thoát hiểm, dừng lại mới cảm nhận sự ê ẩm của toàn thân và đau chân tiếp.
Quán tâm để tìm ra những vi tế của cảm thọ cũng thế. Nương vào lẽ Vô Thường để xả bỏ những hệ lụy ngỡ là Thường, ta đã vội tưởng đạt được an lạc rồi ư" Chưa chắc đâu vì chỉ khi ý thức an lạc chứ không cần dụng công nắm bắt nó, khi ấy mới thực sự là thong dong, an lạc; chứ mới xả được chút phiền não đã tưởng an lạc, vội giữ chặt, nắm bắt vì sợ nó bay đi, thì mới chỉ là vỏ ngoài của an lạc, một hạt sương phiền não rơi xuống, cũng đủ vỡ tan cái vỏ mong manh ấy. Nghĩa là, khi phải vất vả chống trả với khổ đau, phải biến ta thành "bãi chiến trường" để tìm an lạc thì an lạc đó chỉ ngắn ngủi, nhất thời. Khổ đau và phiền não như những giặc cướp luôn túc trực trước cửa nhà, chỉ cần ta lơ là, hé mở (lục căn) là chúng xâm nhập ngay và muốn tìm an lạc, ta lại phải "ra chiến trường" để vất vả chiến đấu tiếp!
Nhưng phàm, muốn đạt tới mục đích gì đã đặt ra mà không dụng công quyết tâm quyết chí đi tới thì làm sao có thành quả! Với Tâm, hành động quyết đi tới mục đích là hành động quyết xông pha vào bãi chiến trường, nơi giặc vô minh, phiền não thường xuyên hoành hành, dẫn dắt hành giả vào những vọng tưởng mờ mịt, tạo nghiệp chập chùng chẳng thấy lối ra. Loại giặc này vô hình vô tướng nên khí giới để diệt trừ chúng cũng phải cực kỳ vi tế. Trong trận chiến này, trước hết, hành giả phải có niềm tin rằng bên trong hình hài của thân tứ đại này là sự hiện hữu vô tướng nhưng thường hằng của Chân Tâm.       
"Ngoại hiện phàm phu chi tướng
Nội bí Bồ Tát chi tâm"
Bên ngoài hiện tướng là phàm phu nhưng bên trong ẩn tâm Bồ Tát.
Chân Tâm này có nhiều tên gọi, tùy tông phái, tông môn, tùy ngay cả nơi ý thích của hành giả. Gọi là gì cũng được nhưng bản chất của nó thì không hề đổi thay. Bản chất đó là sự nhận biết đến, đi của mọi sự vật, mọi cảm thọ bằng cái nhận biết thuần khiết, không qua một lăng kính phân biệt nào. Nhìn bông hoa thì nhận là bông hoa. Hoa mầu đỏ thì là hoa đỏ, không phân biệt héo tươi, tốt xấu gì! Cũng bởi không khởi tâm phân biệt nên cái nhận biết đó rỗng rang, thảnh thơi, bình đẳng, khoáng đãng. Chân Tâm này là không gian mênh mông, tĩnh lặng, vô ngôn nhưng lại có khả năng siêu việt nhận biết tất cả mọi cảm thọ đang vận hành, từ ở tầng cạn là Ý đến tầng sâu là Thức. Nếu cái nhận biết này có một trái tim thì ta có thể hình dung trái tim đó luôn mở rộng với vạn hữu, mọi người và mọi loài, thinh lặng và sáng rỡ.         
Hình hài phàm phu chỉ là khối thịt xương do duyên hợp từ đất, nước, gió, lửa, tự nó không có khả năng thấy, nghe, hay cảm nhận gì, mà cái thấy được, nghe được, nhận biết được là từ Chân Tâm (cái-nhận-biết-bên trong), là con-người-thật, là Phật-tánh, là Đức Phật. Mỗi hình hài phàm phu đều mang một Đức Phật bên trong, nhưng phàm phu vẫn rong ruổi khổ nhọc đi tìm ông Phật bên ngoài vì không đủ thông minh và không đủ niềm tin là đang sẵn có ông Phật bên trong! Đức Thế Tôn biết, thế, thương hại nhân gian quá, mà phải xác quyết rằng: "Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành"

Lời Phật nói, chúng ta từng nghe. Kinh Phật dạy, chúng ta từng học nhưng nghiệp chướng phiền não cũng vẫn theo chúng ta từng bước vì những huân tập sâu dầy của kiếp nhân sinh không một sớm một chiều gột bỏ được. Chính tấm màn vô minh này đã che mờ Ông Phật hằng có bên trong. Ông Phật này luôn lặng thinh, tỉnh sáng, tọa ngay nới lằn ranh rất mỏng giữa mê và ngộ. Vì lằn ranh quá vi tế nên ta vẫn vấp ngã, lạc nẻo mà không hay! Tôi và Buồn phải ở hai hình thái, chủ thể và đối tượng; nếu mơ màng nói "Tôi buồn" là rất dễ biến thành "Nỗi buồn của tôi" để bị nhận chìm trong hố thẳm đau buồn đó; trong khi thực thể, "Tôi" là chủ, đứng nhìn "Buồn" là khách. Chủ không đổi rời, chỉ có khách đến rồi đi nhưng vọng tâm vô minh đã không kịp nhìn ra lằn ranh đó mà đồng hóa hai vai trò.
Chính nơi đây, bãi chiến trường thường xảy ra khi một lúc nào đó, ta bị sức ép quá nặng của khổ đau mà bật lên ước muốn tìm cầu giải thoát. Trên đường tìm giác ngộ, việc chọn pháp môn hay tư thế thích hợp căn cơ mình chỉ là hình thức để nương tựa. Động lực thiết yếu phải khởi từ niềm khát khao mãnh liệt, cực kỳ mạnh mẽ và nghiêm túc, như câu chuyên bà già cô đơn trong chòi lá dưới chân núi. Bà cụ chỉ học lóm được dăm câu kệ, trong đó có câu đúng, câu sai nhưng cụ nào biết, mà chí tâm chí thành, tận lực trì tụng ngày đêm nên chính cái chân tâm ấy đã chiêu cảm tới Chư Phật, biểu hiện thành hào quang rực rỡ phát ra từ căn chòi nghèo nàn đó.
Hành giả đi từng bước, phải lần tìm cái nguồn sinh ra vọng rồi "lâm chiến" với nó bằng tất cả sự tự tin, dũng mãnh của ý chí tìm cầu giải thoát giác ngộ. Trân chiến này nhẹ nhàng hay khốc liệt, trường kỳ hay đoản kỳ là tùy thuộc trí tuệ và quyết tâm của hành giả.
Theo kinh nghiệm của bao người xưa thì khi công phu tu tập đạt tới trạng thái rỗng-không-tuyệt-đối là lúc ta có thể nhìn thấy mặt-mũi-thật của bao khổ đau mà ta từng bị giam hãm ngày đêm.
Hóa ra, cái khổ đau đó vẫn đứng tách rời. Nó là đối tượng bị nhìn. Ta là kẻ đứng nhìn. Nó và ta chẳng có chi ràng buộc, sao nó lại có khả năng khiến ta khổ đau"
Khi tâm-vọng bị tâm-không nhận diện một cách dũng cảm như thế, nó sẽ lập tức biến dạng từ khổ đau thành phương tiện giải thoát hữu hiệu nhất cho hành giả!     
Đó là, sự kỳ diệu khi ta nhận ra cái ta quyết diệt, quyết tìm, đã hòa tan thành cái rỗng rang, cái nhận biết mọi sự vật hoàn toàn qua cảm quan khác.    
Đó là, qua bao nhiêu quá trình tu tập khổ nhọc, cái ta tìm ra chẳng có gì là mới mẻ! Nó chính là những cái vẫn Từng-Là, Đang-Là; chỉ khác, ta  không lầm lẫn nhìn nó Là-Ta hay Của-Ta nữa. Ta vừa giải thoát khỏi sự ràng buộc với nó. Ta đã bước ra, đã tách rời. Ta trở về được ngôi vị chủ-nhân-ông mà ta vẫn-hằng-là.
Tới đây, bãi chiến trường đã lặng!
Ôi, để bước qua được lằn ranh Mê và Ngộ rất vi tế này, biết bao bãi Chiến-Trường-Tâm khốc liệt đã và đang xảy ra, đã cứu vớt hoặc dìm sâu bao hành giả miệt mài khổ lụy. Có lẽ biết thế nên Ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ đã sách tấn chúng ta qua ba câu thơ ngắn nhưng thật đầy đủ, khi diễn tả về Tâm:
"Tâm, tâm, tâm, nan khả tầm
Khoan thời biến pháp giới,
Trách giả bất dung châm"
Một thiền-sư đã dịch rất sát nghĩa là:
"Tâm, tâm, tâm, khó thể tìm
Rộng thời trùm pháp giới,
Hẹp không dung mũi kim"
Nghe được lời khuyến tấn này, dù đã bị quần thảo tả tơi, tôi lại hăng hái lên đường.
Ra bãi chiến trường lần này, khí giới tôi mang theo là hạnh thứ ba, thứ tư và thứ năm trong Lục Độ Ba La Mật. Đó là Nhẫn Nhục, Tinh Tấn và Thiền Định.      
Tôi tự biết, năng lượng của mỗi hạnh, tôi đều chỉ có rất giới hạn, nhưng nương theo lời cổ nhân "Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng", tôi có thể thành thật tự nhủ rằng: "Biết mình biết người, trăm trận . một thắng!"
Chiến đấu với những đối thủ hữu hình còn dễ, chứ đối tượng đã vô hình, lại, khi bao trùm cả pháp giới, lúc nhỏ như mũi kim thì trận chiến này chẳng đơn giản đâu! Chiến sỹ lơ mơ như tôi, trăm trận thắng một cũng là kỳ công lắm! Nhưng nếu thắng được một, rồi thừa thắng xông lên, tiếp tục chiến đấu, biết đâu ..
Vâng, biết đâu . biết đâu ..
Đó là lời các Bậc Thầy Từ Bi luôn khuyến khích chúng ta.
Điều quan trọng là hãy can đảm cất bước.
NAM MÔ THƯỜNG TINH TẤN BỒ TÁT
Hạnh Chi
(Độc-Cư-Am, Đông 2008)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.