Hôm nay,  

Ai Nên Chích Liều Tăng Cường Chống Bệnh Sởi?

14/03/202500:00:00(Xem: 1948)

capture
Bệnh sởi đang bùng phát trở lại tại nhiều tiểu bang của Hoa Kỳ do tỷ lệ tiêm chủng sụt giảm trong những năm gần đây. Các chuyên gia khuyến cáo những ai không chắc chắn về tình trạng chủng ngừa sởi của mình thì nên chích liều tăng cường để đảm bảo an toàn. (Nguồn: pixabay.com)

Dù được tuyên bố là đã bị xóa bỏ ở Hoa Kỳ từ 25 năm trước, bệnh sởi (measles) đang quay trở lại với tốc độ đáng báo động. Chỉ trong hai tháng, đã có 146 trường hợp mắc bệnh sởi đã được ghi nhận tại tây bắc Texas, trong đó có một trẻ nhỏ đã tử vong. Ngoài Texas, các đợt bùng phát nhỏ hơn cũng xuất hiện tại New Mexico, California, Georgia, New Jersey, Rhode Island và một số tiểu bang khác.
 
Phần lớn các ca bệnh xảy ra ở trẻ em, nhưng điều đáng chú ý là hơn hai mươi bệnh nhân tại Texas là người lớn. Điểm chung giữa hầu hết những người nhiễm bệnh là phần lớn họ chưa được chủng ngừa hoặc chủng ngừa chưa đủ.
 
Bệnh sởi là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do siêu vi trùng gây ra, lây lan nhanh, có thể dẫn đến nhiều biến chứng nghiêm trọng và hiện chưa có phương pháp điều trị. Cách phòng ngừa duy nhất là tiêm chủng đầy đủ.
 
Từ năm 1971, vắc-xin phòng bệnh sởi được kết hợp với vắc-xin phòng bệnh sưng hạch (mumps) và rubella (MMR) để giúp việc chủng ngừa thuận tiện hơn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tỷ lệ chủng ngừa tại Hoa Kỳ đã giảm, đây cũng là nguyên nhân khiến bệnh sởi bùng phát trở lại.
 
Các chuyên gia về bệnh truyền nhiễm khuyến cáo rằng mọi người nên coi lại tình trạng tiêm chủng để xem mình đã được bảo vệ đầy đủ trước bệnh sởi hay chưa. Tuy nhiên, điều này có thể không dễ dàng đối với một số người cao niên.  Lý do là vì khi vắc-xin bệnh sởi lần đầu tiên được triển khai (vào những năm 1960), có nhiều loại vắc-xin khác nhau. Một số người đã được chích phiên bản vắc-xin đầu tiên, nhưng sau đó, có nghiên cứu cho thấy một số phiên bản này không có hiệu quả như mong đợi.
 
Bác sĩ Adam Ratner, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm nhi khoa tại Bệnh viện Nhi đồng Hassenfeld thuộc NYU Langone ở New York, và là tác giả cuốn sách “Booster Shots” nói về lịch sử bệnh sởi, cho biết: “Chắc hẳn có nhiều người nghĩ rằng họ đã miễn dịch, nhưng thực ra có thể là không.
 
Vì sao bệnh sởi lại nguy hiểm?
 
Sởi là một trong những bệnh truyền nhiễm mạnh nhất trên thế giới. Một bệnh nhân có thể lây cho 12 đến 18 người khác. Nếu họ bước vào một căn phòng có 100 người chưa tiêm chủng, thì sẽ có đến 90 người có nguy cơ mắc bệnh.
 
Điều đáng lo ngại là siêu vi trùng sởi có thể tồn tại trong không khí đến hai giờ, có nghĩa là dù bệnh nhân đã rời khỏi phòng, bất kỳ ai chưa chủng ngừa bước vào nơi đó vẫn có nguy cơ bị nhiễm bệnh.
 
Khác với nhiều bệnh đường hô hấp khác, hầu như tất cả những ai nhiễm bệnh sởi đều có triệu chứng rõ ràng, thường sẽ bắt đầu xuất hiện sau khoảng một đến hai tuần. Lori Handy, phó giám đốc Trung tâm Giáo dục Vắc-xin tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, cho biết: “Không giống như cảm lạnh hay cúm, bệnh sởi không có trường hợp nhẹ. Không có ai mà chỉ bị sổ mũi một chút rồi thôi.
 
Triệu chứng phổ biến nhất của bệnh sởi là phát ban trên mặt và lan rộng ra toàn bộ cơ thể, nhưng bệnh nhân cũng có thể bị ho, sổ mũi, sốt cao (có thể lên tới 104°F/40°C), đau và đỏ mắt. Ratner cho biết: “Những trường hợp không cần phải vào bệnh viện cũng rất khổ sở.
 
Một số bệnh nhân còn gặp phải biến chứng nghiêm trọng như viêm sưng phổi (pneumonia) hoặc viêm sưng não (brain swelling). Theo Cơ quan Kiểm soát và Phòng bệnh Hoa Kỳ (CDC), 25% số ca mắc bệnh sởi năm nay đã phải vào bệnh viện. Một số người sau khi khỏi bệnh vẫn phải chịu hậu quả nặng nề như bị điếc hoặc mù lòa vĩnh viễn.
 
Bệnh sởi cũng có thể làm thay đổi hệ thống miễn dịch, khiến các tế bào B của cơ thể (B-cells) quên cách chống lại những bệnh từng gặp trước đó. Hiện tượng này được gọi là “mất trí nhớ miễn dịch” (immune amnesia), và có thể kéo dài trong nhiều năm.
 
Ngoài ra, bệnh sởi còn có tỷ lệ tử vong cao: 1 trên 1,000 ca bệnh – cao hơn nhiều so với cúm mùa, vốn chỉ có tỷ lệ tử vong 2 trên 100,000 ca. Trong đợt bùng phát tại Texas, có một trẻ nhỏ chưa được tiêm chủng đã không thể qua khỏi. Đây cũng là trường hợp tử vong do bệnh sởi đầu tiên tại Hoa Kỳ kể từ năm 2015. Trước khi có vắc-xin, mỗi năm có khoảng 400 đến 500 người ở Hoa Kỳ chết vì bệnh sởi.
 
Những ai có nguy cơ cao?
 
Trẻ em là nhóm có nguy cơ cao nhất. Do đó, các chuyên gia y tế khuyến cáo tất cả trẻ em nên được chích liều vắc-xin đầu tiên vào khoảng 12 tháng tuổi, và liều thứ hai trước khi vào mẫu giáo.
 
Tại Texas, có 74% bệnh nhân dưới 18 tuổi. Điều này có thể phần nào liên quan đến sự khác biệt trong hệ thống miễn dịch của trẻ em và người lớn, nhưng yếu tố quan trọng hơn là tỷ lệ tiêm phòng bệnh sởi đang giảm dần, do một số phụ huynh lo ngại về độ an toàn của vắc-xin.
 
Theo số liệu năm 2019, khoảng 8% trẻ em tại Hoa Kỳ chưa được chích ngừa bệnh sởi đầy đủ. Ở một số cộng đồng, đặc biệt là tại Texas, tỷ lệ này thậm chí còn cao hơn. Ngoài ra, đại dịch COVID-19 cũng có thể đã làm gián đoạn lịch trình tiêm chủng, khiến nhiều trẻ không được chủng ngừa đúng hạn.
 
Một trong những lý do khiến trẻ em có nguy cơ mắc bệnh sởi cao hơn là do các con tiếp xúc, ở gần nhau khi đi học. Theo Priya Sampathkumar, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Mayo Clinic ở Rochester, Minnesota, “trẻ nhỏ dành nhiều thời gian chơi đùa, học tập trong không gian kín, nên siêu vi trùng rất dễ dàng lây lan. Ngoài ra, phải tới khi trẻ lên 4, 5 tuổi thì mới được chích mũi vắc-xin MMR thứ hai, nên những bé nhỏ hơn vẫn chưa có đủ mức bảo vệ cần thiết.
 
Nhóm có nguy cơ cao khác bao gồm những người lớn lên ở các quốc gia không có chương trình tiêm chủng sởi định kỳ. Bên cạnh đó, có khoảng 3% dân số dù đã được chích ngừa đầy đủ nhưng vẫn không tạo được phản ứng miễn dịch hiệu quả. Đối với người cao niên, loại vắc-xin sởi được chích ngừa khi còn nhỏ cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng miễn dịch hiện tại.
 
Vắc-xin sởi có hiệu quả kéo dài bao lâu?
 
FDA chuẩn thuận vắc-xin sởi đầu tiên vào năm 1963, với hai loại được đưa vào sử dụng trong cùng năm đó. Thuốc của Merck là loại live vaccine, có chứa siêu vi trùng đã bị làm cho yếu đi để kích thích hệ thống miễn dịch mà không gây bệnh. Thuốc của Pfizer là inactivated vaccine, chứa siêu vi trùng đã bị diệt hoàn toàn.
 
Trong những năm đầu tiên sau khi hai loại vắc-xin này ra đời, khoảng 15 triệu trẻ em ở Hoa Kỳ đã được chích ngừa một trong hai loại. Nhờ đó, đến năm 1966, số ca mắc bệnh sởi mỗi năm tại Hoa Kỳ đã giảm một nửa so với thời trước khi có vắc-xin.
 
Tuy nhiên, vào năm 1967, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng hiệu quả bảo vệ từ vắc-xin của Pfizer giảm rất nhanh chỉ sau sáu tháng, còn vắc-xin của Merck thì vẫn duy trì hiệu quả trong nhiều năm. Do đó, thuốc của Pfizer nhanh chóng bị loại bỏ khỏi thị trường.
 
CDC khuyến nghị rằng bất kỳ ai đã tiêm phòng bệnh sởi trước năm 1968 nhưng không chắc mình đã tiêm loại vắc-xin nào thì nên đi tiêm ít nhất một liều cập nhật (updated shot). Những người trong độ tuổi từ 59 đến 68 tuổi (sinh vào khoảng năm 1956 - 1965) có thể nên chích thêm liều tăng cường (booster), thực ra là vắc-xin MMR hiện nay.
 
Những người đã được chích một liều vắc-xin sởi trước khi chương trình tiêm phòng hai liều được áp dụng vào năm 1989 có mức bảo vệ khoảng 93%. Tuy nhiên, trong các đợt bùng phát lớn, các chuyên gia y tế có thể khuyến nghị họ tiêm thêm một liều để tăng sức đề kháng.
 
Riêng những người sinh trước năm 1957 không cần tiêm vắc-xin, vì vào thời điểm đó, bệnh sởi còn phổ biến và phần lớn đều có khả năng miễn dịch tự nhiên do đã từng bị bệnh sởi từ nhỏ.
 
Mặc dù có thể dựa vào độ tuổi để tính xem có cần chích ngừa hay không, nhưng có một cách chính xác hơn là xét nghiệm máu để kiểm tra kháng thể.
 
Các nghiên cứu gần đây cho thấy hiệu quả của hai liệu vắc-xin loại live vaccine có thể kéo dài suốt đời. Theo một nghiên cứu quan sát tại Pháp, hiệu quả bảo vệ của vắc-xin chỉ giảm 0.22% mỗi năm, trong khi một nghiên cứu tại Anh ước tính mức suy giảm là khoảng 0.4% mỗi năm.
 
Điều này có nghĩa là, sau 45 năm, một người đã chích đủ hai liều live vaccine vẫn còn tới 98% khả năng miễn dịch ban đầu. Alexis Robert, nhà mô hình toán học về bệnh truyền nhiễm tại Trường Vệ sinh & Y học Nhiệt đới London, giải thích: “Nếu khả năng miễn dịch mà giảm nhanh, chúng ta sẽ thấy những đợt bùng phát lớn hơn nhiều vào lúc này.” Và nếu vắc-xin thật sự bị mất tác dụng nhanh, thì người cao niên cũng sẽ chiếm đa số các trường hợp bị bệnh sởi hiện nay. Nhưng thực tế, các ca bệnh hiện tại chủ yếu xảy ra ở trẻ em và thanh niên chưa được tiêm phòng đầy đủ.
 
Tiêm chủng: Biện pháp bảo vệ cộng đồng
 
Không phải ai cũng có thể chích vắc-xin MMR. Những người có hệ thống miễn dịch suy yếu, phụ nữ mang thai và những người bị dị ứng với thành phần vắc-xin không thể tiêm. Vì vậy, việc đạt tỷ lệ tiêm chủng cao là cách duy nhất để bảo vệ nhóm đối tượng này. Ngưỡng miễn dịch cộng đồng cho bệnh sởi là khoảng 95%.
 
Ngoài việc ngăn ngừa bệnh sởi, vắc-xin còn có một lợi ích khác: nếu một người đã tiêm đủ hai liều nhưng vẫn bị nhiễm bệnh (trường hợp rất hiếm), họ sẽ ít có khả năng lây cho người khác. Thí dụ, vào năm 2017 ở Tây Ban Nha, một nam y tá làm việc tại phòng cấp cứu vô tình bị nhiễm sởi trong bệnh viện. Trước khi phát bệnh, anh này đã đi máy bay và tiếp xúc với nhiều người, nhưng không ai bị lây bệnh.
 
Trong những thập niên gần đây ở Hoa Kỳ, ngày càng có nhiều người do dự không muốn đi chích ngừa cho bản thân và con cái. Tỷ lệ chủng ngừa suy giảm, nhiều đợt bùng phát sởi xuất hiện. Năm 2019, tỷ lệ tiêm chủng giảm mạnh đến mức Hoa Kỳ suýt không giữ được tình hình xóa bỏ bệnh sởi (elimination status, có nghĩa là nếu có ca bệnh xuất hiện, dịch sẽ được kiểm soát và dập tắt trong vòng một năm, không để siêu vi trùng lây lan rộng rãi trong cộng đồng).
 
Nguyên nhân khiến nhiều người không muốn chích ngừa vắc-xin MMR chủ yếu xuất phát từ nỗi lo về hiệu ứng phụ, mặc dù chúng chỉ ở mức độ nhẹ như nhức bắp tay, mệt mỏi, sốt nhẹ hoặc phát ban nhẹ. Có rất ít trường hợp gặp tình trạng giảm tiểu cầu trong máu, nhưng thường đều không có gì nghiêm trọng và sẽ tự hết.
 
Ngoài ra, nhiều người vẫn còn tin vào thông tin sai lạc rằng vắc-xin MMR có liên quan đến bệnh tự kỷ (autism). Lời đồn này bắt nguồn từ một nghiên cứu gian lận vào năm 1998, sau đó đã bị giới khoa học bác bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của truyền thông và mạng xã hội, nhiều người vẫn tiếp tục lan truyền thông tin sai sự thật này, khiến nhiều bậc phụ huynh do dự trong việc tiêm chủng cho con cái họ.
 
Theo Handy, đối với bất kỳ bệnh nào, chúng ta đều phải cân nhắc giữa các hiệu ứng phụ của vắc-xin và nguy cơ khi bị nhiễm bệnh. Hiện tại, bệnh sởi đang quay trở lại, kéo theo nguy cơ viêm phổi, viêm não, phải vào bệnh viện và thậm chí là tử vong. Vì vậy, theo bà, “mọi người nên lựa chọn cách an toàn và hiệu quả nhất là chích ngừa.
 
VB biên dịch
 
Nguồn: “Should you get a measles booster? Some people may not be as protected as they think” được đăng trên trang Nationalgeographic.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hãy thử nhắm mắt lại và hình dung một trái táo. Quý vị thấy gì? Màu đỏ chín mọng hay màu xanh óng ánh? Trái táo nằm trên bàn, đang lơ lửng trong không khí hay được ai đó cầm trên tay? Nếu đã cố gắng mà chỉ thấy một khoảng không vô định, rất có thể quý vị đang trải qua một tình trạng đặc biệt có tên là aphantasia – hội chứng mất khả năng hình dung hình ảnh trong tâm trí. Dù mới được đặt tên gần đây, hiện tượng này đang mở ra những hiểu biết mới mẻ về sự đa dạng trong cách não bộ con người hoạt động và ghi nhớ thế giới.
Khi nhắc đến bọ ve (ticks), người ta thường nghĩ ngay tới những ký sinh trùng đáng sợ, lặng lẽ bám theo những bước chân dã ngoại cuối tuần hoặc những buổi dạo chơi công viên. Nỗi sợ đó không phải vô lý. Từ lâu, bọ ve đã là nguyên nhân truyền bệnh phổ biến nhất tại Hoa Kỳ trong nhóm bệnh có vật thể trung gian. Chúng hút máu từ nhiều loài động vật, hấp thu mầm bệnh rồi truyền sang người qua mỗi vết cắn. Có những bệnh nguy hiểm như Lyme, babesiosis và sốt Rocky Mountain – nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời, hậu quả sẽ khôn lường, thậm chí có thể tử vong.
Chắc hẳn quý vị đã đôi lần bắt gặp những quảng cáo từ các chuyên gia vật lý trị liệu về phương pháp điều trị nhức đầu và không khỏi băn khoăn: “Có hiệu quả thật không vậy?” Câu trả lời là: Có! Đã có khá nhiều nghiên cứu đáng tin cậy chứng minh rằng các liệu pháp vật lý trị liệu có thể hữu hiệu, đặc biệt là với những cơn nhức đầu liên quan đến vùng cổ.
Nếu từng nghe ai đó bảo rằng “bình tĩnh, hít một hơi sâu vào,” thì quý vị đừng vội nghĩ đó là lời khuyên vu vơ, sáo rỗng. Thực ra, khoa học đã chứng minh điều đó hoàn toàn đúng. Nhiều nghiên cứu cho thấy, việc hít thở một cách có ý thức mang lại hàng loạt lợi ích, cả ngắn hạn lẫn lâu dài: từ cải thiện sức khỏe tim mạch, giảm bớt lo lắng, tinh thần sảng khoái hơn, đầu óc minh mẫn và giấc ngủ cũng sâu hơn.
Ngày nay, ung thư đại tràng (hay còn gọi là ung thư ruột già) không còn là căn bệnh của tuổi già nữa. Cứ 5 người được chẩn đoán thì có 1 người chưa đến 54 tuổi, đánh dấu mức tăng 11% trong nhóm tuổi này trong vòng hai thập niên qua. Tại sao căn bệnh này lại bùng phát sớm như vậy? Câu hỏi này đã làm đau đầu không ít bác sĩ và khoa học gia. Sau nhiều năm miệt mài tìm kiếm, giới chuyên gia từ lâu đã nghi ngờ colibactin, một loại độc chất do vi khuẩn E. coli và một số vi khuẩn khác sản sinh, có thể phá hủy DNA. Mới đây, một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature đã xác định mối liên quan rõ ràng giữa việc tiếp xúc với colibactin từ thuở nhỏ và nguy cơ mắc ung thư đại tràng ở những bệnh nhân dưới 40 tuổi.
Tuổi vị thành niên vốn đã là giai đoạn không dễ dàng, nhưng thanh thiếu niên ngày nay lại đang gặp phải những rắc rối về sức khỏe mà chưa thế hệ nào từng trải qua. Theo một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Y khoa The Lancet, hơn một tỷ người trong độ tuổi từ 10 đến 24 (tương đương ít nhất một nửa tổng số thanh thiếu niên trên toàn thế giới) có nguy cơ gặp hậu quả sức khỏe nghiêm trọng vào năm 2030. Béo phì tăng nhanh, các vấn đề về tâm thần ngày càng trầm trọng, công nghệ kỹ thuật số xâm nhập sâu vào đời sống, biến đổi khí hậu – tất cả đang cùng tạo thành một cuộc khủng hoảng sức khỏe đối với giới trẻ.
Các chuyên gia y tế công cộng đã cảnh báo từ lâu rằng virus COVID-19 vẫn chưa biến mất. Giờ đây, SARS-CoV-2 lại tiếp tục biến đổi thành một biến thể mới có tên NB.1.8.1, hiện đang bùng phát các ca lây nhiễm tại Trung Quốc. Một số trường hợp cũng vừa xuất hiện ở Hoa Kỳ, theo thông báo từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC). Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng đã đưa biến thể này vào danh sách “biến thể đang được theo dõi”.
Năm 2024, Nhà xuất bản Đại học Oxford đã chính thức công bố “brain rot” (xin tạm dịch là “mục não,” hoặc hiểu nôm na là tình trạng đầu óc mụ mị, trí tuệ suy giảm) là “Từ của Năm” (Word of the Year). Thuật ngữ này có lẽ không quá quen thuộc với những ai ít tiếp xúc với văn hóa mạng Internet (thí dụ: với nhiều người, Ohio chỉ đơn thuần là một tiểu bang miền Trung Tây, và “mewwing” là tiếng kêu của mèo). Tuy nhiên, đối với thế hệ Z (Gen Z) và Alpha (Gen Alpha) – những người đã tiếp nhận và phổ biến “kho từ vựng” đặc trưng của ngôn ngữ kỹ thuật số thời hiện đại – “mục não” lại là một cụm từ quen thuộc, thậm chí gắn liền với đời sống mạng hàng ngày. Và dù có thể chưa biết tới từ này, nhưng rất có thể quý vị đã từng cảm nhận được những ảnh hưởng mà nó mô tả.
Bệnh tiểu đường là một căn bệnh mãn tính nguy hiểm, có thể làm tăng nguy cơ bị mù lòa, suy thận, các bệnh tim mạch và nhiều biến chứng khác. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều nghiên cứu cho thấy rằng bệnh tiểu đường không phải là một căn bệnh mà chúng ta phải cam chịu suốt đời. Hiện tại, có khoảng 1/10 dân số Hoa Kỳ và hơn 830 triệu người trên toàn thế giới đang sống chung với bệnh tiểu đường, trong đó 91% mắc tiểu đường loại 2, một dạng bệnh thường phát triển khi trưởng thành, không giống như tiểu đường loại 1 (xuất hiện từ nhỏ do hệ miễn dịch tấn công các tế bào sản xuất insulin).
Chụp X quang bằng máy vi tính (CT scan) là một công nghệ thiết yếu trong nền y học hiện đại. Được sử dụng tại hầu hết các bệnh viện và phòng khám trên khắp Hoa Kỳ, phương pháp này cho phép bác sĩ quan sát bên trong cơ thể một cách nhanh chóng và chi tiết – giúp chẩn đoán nhiều loại bịnh, từ ung thư, tai biến đến các chấn thương cơ quan nội tạng. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới cảnh báo rằng việc ngày càng lệ thuộc vào công nghệ này có thể âm thầm kèm theo hậu quả khôn lường.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.