Hôm nay,  

Nguyễn Đình Toàn, người gõ cửa ký ức

1/6/202217:52:00(View: 4527)

Nguyễn Đình Toàn, người gõ cửa ký ức

 

Trịnh Thanh Thủy

 

 

blankChân dung Nguyễn Đình Toàn

 

 

Là một người Việt ly hương, hình như ai cũng có đôi lúc nhớ quê, hình dung lại nơi mình từng sinh ra, quay quắt thương cái chốn mình đã đi về trong tháng ngày quá khứ. Chỉ cần một hình ảnh, một cơn mưa, một vạt nắng, một nhành hoa thơm ngái hương vị quê nhà là lòng người lại bồi hồi tưởng tiếc. Nhất là khi đọc một bài thơ, nghe một khúc nhạc, hát lên một ca từ sóng sánh những âm vang kỷ niệm xưa, ai mà không tự dưng nhè nhẹ mở toang cánh cửa ký ức của lòng mình. Tôi đã làm điều đó khi đọc các bài thơ trong tuyển tập "Thơ và ca từ" của tác giả Nguyễn Đình Toàn.
  

 Là một nhà văn, ông viết dưới nhiều dạng, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch nói, bút ký. Tác phẩm Áo mơ phai của ông đoạt Giải Văn học Nghệ thuật của Việt Nam Cộng hòa năm 1973. Ngoài ra ông còn là một thi sĩ kiêm xướng ngôn viên của đài phát thanh VTVN trước năm 1975. Chính ông đã phổ những bài thơ của mình thành những bài nhạc được nhiều người yêu thích. Người bạn rất thân lâu năm của ông là Thi sĩ Thành Tôn đã gom góp những bài thơ của ông thành một tập thơ in riêng tặng ông. Gần đây, bạn bè thương mến ông, đã chung lưng giúp ông thiết kế và xuất bản để đứa con tinh thần, tuyển tập "Thơ và Ca từ" được ra đời.

  

Cuốn "Thơ và Ca Từ" được Nhà sách Tự Lực, Culture Art Education Exchange Resource và Văn Học Press cùng hợp lực xuất bản. Bìa in trang nhã do Hoạ sĩ Đào Nguyên Dạ Thảo biên tập, dàn trang và thiết kế bìa. Ảnh chụp bìa trước của Nguyễn Đình Tri. Ảnh chụp bìa sau của Trịnh Thanh Thủy.      

 
blank

 Bìa sách "Thơ và Ca Từ"

 

  

Trong tuyển tập trên trăm bài thơ của ông, nỗi nhớ lúc nào cũng được tô đậm như chim nhớ bạn, nhớ bầy, như người nhớ hơi, nhớ hương. Trong một bài thơ hay nhạc của ông, người ta tìm ra được ít nhất là vài câu nổi trội trong lối dùng từ khác lạ, sáng hẳn lên với sáng tạo mà ông gọi là “nói một cách khác.” Ông tránh ước lệ, sáo ngữ, tránh dùng các từ Hán Việt, tránh lặp lại những gì người ta đã dùng quá nhiều như chiếc diêm quẹt đã bị quẹt nhiều quá rồi, không quẹt được nữa.

 

Chung quanh ta

Lá vàng đã

thành nến trong cây

Hay là thu hắt lại tình phai

từ mắt người

Anh hôn em ngoài phố khuya

Nơi ánh đèn chợt sáng

Chợt khuất đi

(Hà Nội một hôm nào)

 

hay

 

Cố thắp cho em một ngọn đèn
Dù lửa tàn trong anh
Không còn đủ khêu thêm đèn sáng
 
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Để dù trong tăm tối
Có mộng còn biết nơi tìm sang
 
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Rồi thả hồn bay lên
Nơi hẹn hò không tên gặp em
 
Cố thắp cho em một ngọn đèn
Để dù trong xa vắng
Em còn được cháy trong lòng anh

(Hãy Thắp Cho Nhau Một Ngọn Đèn)  

 

Nàng thơ, người nữ của ông lúc mờ, lúc tỏ, khi mờ nhạt, khi bùng lên toả sáng, đơm hương trong cái cõi ký ức mịt mù sương khói ấy. "Em" mong manh, lóng lánh, em xanh ngát xuân thì. Trong khi "Ta" thì rũ đau và buồn như lá khô mùa trở gió.

 

Ôi em là giọt sương
Long lanh đầu cành mai
Cho tim ta phút vui ở ngoài cuộc vui
Như hương lan thơm bay đầy thềm nắng mới
 
Từ kiếp đau nào xưa
Tình đã lăn tình đi
Trên môi em còn thấy
Trăm năm câu tình ghi
Trong cung đàn sầu ấy
Ta buồn như lá khô

(Sương Mai)

 

Em như trăng mòn

Chờ mùa đông sẽ tan

Ta yêu em như giòng nước

tối tăm buồn

Còn bao nhiêu tóc xanh

Để thắt cho tình

......................................

Lòng ta như dòng sông đêm

Chan hoà sóng ngân

Có môi em như nụ hoa trôi ngang

Ôi tấm gương mờ ám

(Trăng mòn)

 

Ông bắt đầu làm thơ từ hồi còn bé. Những ca từ trong nhạc khúc của ông nguyên thủy là những bài thơ. Chữ nghĩa được ông dùng giản đơn, tinh tế, cô đọng nhưng sâu sắc, sống động và gợi hình, gợi bóng. Trong văn chương, thi ca, âm nhạc, các giác quan đều được ông tận dụng, ngay cả đến khứu giác. Mùi vị xuất hiện và được trộn lẫn, nào là hương hoa, cây cỏ, mùi thực phẩm quyện vào nhau như một bức tranh sống, ba chiều.

Sống và lớn lên giữa thời tao loạn, tuổi trẻ, thân phận và niềm tin là những hoài nghi đắng chát. Thái độ bối rối, mất định hướng của triết thuyết hiện sinh đã ẩn hiện đâu đó trong thơ, nhạc của ông một thời.

  

Tôi còn trẻ, tôi không muốn bỏ ngang đời
nhưng cuộc đời đã làm tôi sợ hãi
và mặt trời không còn là vàng rơi châu vãi
người với người đã trở thành thiên tai
 
Tôi còn trẻ, tôi không muốn oán trách ai
dù tim tôi đã nhỏ máu thương đời
tôi không còn niềm tin nào cầm cho ấm tay
sống một ngày, sống ngày nào biết ngày ấy thôi 

(Sống Một Ngày)

 

Chiến tranh, tù đày, đâm chồi mọc rễ tầng tầng, lên số phận những người thua cuộc bất hạnh của một chế độ, một chủ nghĩa. Mưa tưới nước, bón nhựa nguyên, rải hạt giống buồn và thống khổ lên những chốn hoang vu, những trại cải tạo, nơi chôn bao tù nhân vô tội sau cuộc chiến.

 

Chiều đứng trên đồi cao

Ta thở dốc

Ta trông mây đục

Trông người người đen

Cây nôn ra rừng gió độc

Bùn lầy dốc mưa trơn

Có con phượng nào không

Cho ta cam phần chim nhỏ

Ta uống lệ riêng ta

Nuốt sầu thiên cổ

Mưa Long Giao mưa đỏ hồn ta

(Mưa Long Giao)

Hay

Một tuần trăng

Có bao nhiêu giòng lệ thương

Một tuần nhang

Biết bao nhiêu linh hồn vấn vương

Vài ngàn năm biết bao nhiêu là thịt xương

Vài chục năm

Với bao nhiêu là đạn bom

Khăn đất còn để tang

Gan núi còn cảm thương

(Một tuần trăng)

 

Hoặc

Tha phương

Ai tha phương cùng ta

Trên chiếc xe già lăn qua xác đạn

Với tâm hồn của người ly tán

Muốn quay về nhìn lại cố hương

(Trên chuyến xe trở lại)

 

Nói đến phần giai điệu của nhạc Nguyễn Đình Toàn, phần lớn người nghe đều tìm ra sự đồng cảm và nghe nhạc bằng cảm tính. Với phần nhạc lý và kỹ thuật nhạc sĩ Jazzy Dạ Lam đã chia sẻ một ít cảm nhận riêng tư của cô .

 

- Nhạc phẩm của Nguyễn Đình Toàn nổi trội ở phần ca từ. Ca từ nhạc của ông vốn dĩ từ thơ nên nó đậm chất thơ và đánh thẳng vào cảm xúc người nghe. Ngôn ngữ của ông sâu sắc và mới lạ nên phần giai điệu không cần quá cầu kỳ cũng đủ ru hồn người nghe bồng bềnh. Tỷ như có rất nhiều ca khúc hấp dẫn, lôi cuốn người nghe do ca từ chứ không phải do âm điệu đặc biệt của nó, tương tự nhạc của Leonard Cohen, hay Billy Joe. Ngoài một số bài được hoà âm phối khí với phong cách tươi mới, bay bổng và không kém phần hiện đại, dễ tiếp cận người nghe, các ca khúc của ông có đặc thù là dù giai điệu quen thuộc trong lối hành âm hay các motiv phát triển giai điệu, những nét giai điệu này không quá đặc sắc, vì có lẽ không chủ ý tạo sự bất ngờ, nhưng đủ mượt mà lôi cuốn, dẫn dắt người nghe đến vùng cảm xúc mà tác giả muốn. Đơn giản mà chạm đến trái tim người nghe. Như vậy cũng đủ gọi là tài tình.

 

 

Sách "Thơ và Ca từ Nguyễn Đình Toàn" có thể mua ở:

  

Nhà Sách Tự Lực

14318 Brookhust St

Garden Grove, CA 92843

 

Mua sách từ xa xin liên lạc với nhà sách Tự Lực

Tel: (888) 204-7749 hay (714) 676-8310

email mua sách [email protected]

 

Trịnh Thanh Thủy

 

 

 

 



Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nếu cảm giác của tôi thường âm u trong những ngày cuối năm âm lịch, thì cảm giác đó, ngược lại, bừng sáng, háo hức, tò mò, trong những ngày cuối năm dương lịch. Nhìn lại những gì đã xảy ra, vô số những sự kiện quan trọng, hoặc sẽ trở thành quan trọng, trong năm qua, thường xuyên đưa ra nhiều câu hỏi, khiến những câu trả lời trở thành nhiều nỗ lực tìm hiểu tài liệu, suy đoán hậu quả, thánh thức bản thân, và có lẽ, dẫn đầu là niềm vui lạc quan. Những năm gần đây, tôi hầu như quyết định, chỉ có lạc quan mới có thể đi qua một thế giới đương đại, phức tạp giữa đúng và sai, hỗn loạn giữa chính trị và cách sống hàng ngày. Có lẽ, lạc quan, không phải để chống đối thú tính vì chẳng bao giờ con người có thể thắng được, là cách dẫn đưa thú tính đến những nơi bớt dơ bẩn và man rợ
Người A Phú Hãn đã khóc khi nhận được những món quà tình nghĩa của các thành viên trong cộng đồng Việt Nam lúc họ đến định cư tại Orange County. Từ những chiếc TV, tủ lạnh, đến xe cộ, quần áo, tiền bạc, công ăn, việc làm v..v.., thậm chí tôi còn biết, cô con gái của một vị cố đại tướng VNCH, đã đem cả gia đình, gồm vợ và 2 đứa con nhỏ của một người lính biệt kích Afghans về sống chung trong ngôi nhà xinh đẹp của cô tại thành phố Huntington Beach, CA. Tất cả những việc làm cùng thành quả nói trên đã là những món quà tốt đẹp để chúng ta hãnh diện chia sẻ với bất cứ ai khi họ muốn tìm hiểu.
Đã bao giờ bạn cảm giác vui mừng khôn xiết vì người thân của mình vừa gặp chuyện may mắn? Ngược lại, có bao giờ bạn bắt gặp mình thích thú vui mừng vì chuyện không may vừa xảy ra cho ai đó? Có lẽ phản ứng đầu tiên cho câu hỏi thứ hai của bạn sẽ là, “làm gì có”! Bạn chắc hẳn nghĩ rằng mình chẳng thể nào có thể “tệ” như thế. Cứ từ từ suy nghiệm, nếu thành thực với bản thân, bạn sẽ không khỏi ngạc nhiên nhận ra đã có (nhiều) lúc mình từng cảm giác như thế. Từ chính xác để diễn tả cảm xúc này là: Schadenfreunde – một từ ghép vay mượn từ tiếng Đức bắt nguồn từ thế kỷ 18, được định nghĩa là: cảm xúc vui sướng dấy lên từ việc chứng kiến hoặc biết được ai đó vừa gặp chuyện rắc rối không may. Tách ra từng chữ “Schaden” có nghĩa là thiệt hại hoặc làm hại, freunde có nghĩa là niềm vui, ghép lại Schadebfreunde có nghĩa là niềm vui trước một số tổn hại hoặc bất hạnh mà một người nào đó phải chịu. Dịch nôm na tiếng Việt là hạnh phúc trên đau khổ của người khác.
Dân Biểu Alan Lowenthal sanh năm 1941 và lớn lên tại Queens Borough thuộc thành phố New York. Ông tốt nghiệp cử nhân từ Đại Học Hobart and William Smith và có bằng tiến sĩ từ The Ohio State University. Năm 1969, ông đến California và trở thành giáo sư khoa tâm lý học cộng đồng tại Đại học Cal State Long Beach cho đến năm 1998. Năm 1992, ông đắc cử Nghị Viên Hội Đồng Thành Phố Long Beach. Sau đó, ông tiếp tục đắc cử vào các chức vụ Dân Biểu Tiểu Bang và Thượng Nghị Sĩ Tiểu Bang California. Năm 2012, ông Alan Lowenthal đắc cử Dân Biểu Liên Bang, đại diện địa hạt 47 bao gồm các thành phố và khu vực như Westminster, Midway City, Garden Grove, Stanton, Cypress, Buena Park, Anaheim, Los Alamitos, Rossmoor, Lakewood, Signal Hill, Long Beach, và Avalon. Tại Hạ Viện Quốc Hội Hoa Kỳ, Dân Biểu Alan Lowenthal đã phục vụ trong Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện, Hội Đồng Ngoại Giao Á Châu Thái Bình Dương, Ủy Ban Vận Chuyển và Hạ Tầng Cơ Sở, Ủy Ban Tài Nguyên Thiên Nhiên ...
Tranh gỗ Nhật Bản, woodblock prints hay ukiyo-e, đến với châu Âu và châu Mỹ vào khoảng thế kỷ thứ 19. Loại tranh này thời ấy rất thịnh hành và được nhiều họa sĩ danh tiếng thời ấy theo đuổi, trong đó có Van Gogh. Khởi đầu (1600-1868), tranh gỗ in hình các vị Phật và kinh kệ, phát không cho người đi lễ chùa. Dần dần để tăng thu nhập tài chính, họa sĩ và nhà xuất bản chuyển sang làm tranh phục vụ những người giàu có và uy quyền trong xã hội, hoặc có nhu cầu nổi tiếng như các vị võ sĩ samurai, nghệ nhân (geisha), kỹ nữ (courtesan), và diễn viên kabukai. Tranh khiêu dâm cũng rất thịnh hành vào thời kỳ này. Vì tranh gỗ phục vụ các thành phần bị xem là thác loạn, nên được gọi là ukiyo-e, hay pictures of the floating world; có nghĩa là những bức tranh miêu tả cuộc sống trần tục. Ukiyo, hay floating world, hay thế giới nổi trôi, là chữ lấy từ nhà Phật, dạy rằng cuộc đời mang tính phù du.
Một người nghĩ rằng, người kia làm chuyện lầm lỗi, vì muốn chống đối, người này làm chuyện có lỗi để gây tiếng vang, phản đối lại sự lầm lỗi của người kia. Vậy thì ai có lỗi? Và lỗi nào nặng hơn? Có lẽ, bạn đọc nghĩ rằng, tôi đang muốn nói về chuyện luật tử hình. Lý luận này: một kẻ cố ý giết người, hoặc giết nhiều người, cần phải đền tội bằng cái chết. Mắt đền mắt. Răng đền răng. Đúng và hữu lý. Nhưng lý luận kia: Trong xã hội văn minh, trừng phạt là thứ yếu, giáo dục, cải thiện người xấu trở thành tốt mới là mục tiêu nhân bản. Người phạm tội, có quyền được hưởng, ít nhất, một cơ hội để hối lỗi, để trở thành người tốt hơn. Cả hai lý luận đều đúng. Có lý luận thứ ba: Giết người là có tội, dù là lý do gì, ngoại trừ phải tự vệ trong tình trạng khẩn cấp. Như vậy, khi tòa án kết tội tử hình, chính tòa án (luật pháp, thẩm phán, và công tố viên) đã phạm tội giết người.
Ở Ý, ăn hết đĩa thức ăn trong bữa tiệc thể hiện lòng biết ơn đối với chủ nhà qua ngụ ý rằng thức ăn rất ngon. Trong khi ở Hồng Kông, để lại một chút trên dĩa thể hiện cảm xúc biết ơn tương tự với ngụ ý rằng thức ăn chủ nhà đãi rất nhiều, rất thịnh soạn. Sự tương phản văn hóa này trong “cách cảm ơn” rất rõ ràng; do văn hóa và lối giáo dục ảnh hưởng đến việc truyền đạt cảm xúc biết ơn.
Trước hết, chúng ta thừa hưởng một nền văn hóa phụ hệ. Người đàn ông nắm hết quyền hành và đàn áp đàn bà theo ý riêng. Những thế hệ trước năm 1950, hầu hết đàn bà Việt là nô tỳ cho đàn ông, một loại nô lệ tự nguyện theo truyền thống và có thể bị hành hạ nhiều hơn nữa, nhưng không được xã hội, chính quyền bênh vực. Về sau, nhờ du nhập văn hóa, văn minh tây phương và bộ luật gia đình thời đệ nhất cộng hòa, người đàn bà Việt mới trút bớt gánh khổ bị áp bức, tuy nhiên, tinh thần tự nguyện nô tỳ vẫn hiện diện trong huyết mạch của những thế hệ trẻ, kéo dài qua hải ngoại, cho dù nơi đây tôn trọng phụ nữ bậc nhất.
Ai quen gặp tôi đều biết tôi nói nhiều, quá nhiều. Lại thích uống rượu, nhiều rượu. Rượu vào lời ra. Nói càng nhiều hơn. Rồi giờ đây, bắt đầu điếc tai, không nghe, nghe không rõ, càng nói ghê gớm hơn nữa và lớn tiếng, gần giống như đàn áp công luận. Tôi chắc rằng bạn đọc đã từng gặp nhiều lần, những người nói không chịu chấm dứt. Và chúng ta thường ca tụng, ngưỡng mộ những ai ra đám đông lầm lầm lì lì không nói gì hoặc cạy miệng mới nói. Trước hết, Xin phân tích hiện tượng này: Người ít nói chia làm ba loại: 1- Người sinh ra có tính ít nói. 2- Người hiểu biết sâu rộng, thâm trầm không muốn nói. 3- Người không biết gì sợ không dám nói.Người nói nhiều cũng chia làm ba loại: 1- Người có tính nói nhiều. 2- Người hiểu biết nhiều muốn truyền bá những gì đã biết. 3- Người không biết nhiều nhưng có động cơ nổ. Đối với họ, nói là nhu cầu để chứng minh sự nổi bật .
Ít nhất 149 người đã thiệt mạng và 150 người khác bị thương sau khi họ bị đè bẹp trong đám đông Halloween ở Seoul vào tối thứ Bảy, sở cứu hỏa của thành phố cho biết, đậy là một trong những tai nạn thời bình chết chóc nhiều nhất trong lịch sử gần đây của Hàn Quốc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.