Hôm nay,  

Về Uy Tín Của CDC và Việc Chích Booster Chống Covid Cho Trẻ Em

01/03/202400:00:00(Xem: 1282)

CDC
  
Trong một bài viết về chích ngừa tăng cường cho Covid mùa đông năm nay, tôi đã nhận xét về sự tương đối trong những khuyến cáo của Trung tâm Kiểm soát Bệnh Hoa Kỳ (CDC) về vấn đề chích ngừa Covid mũi booster. Riêng trẻ em thì sao? Khuyến nghị cho họ là gì? CDC khuyến nghị tiêm phòng cho trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên. Mặc dù phân tích của CDC cho thấy trẻ em từ 5 đến 17 tuổi ít có khả năng mắc bệnh nặng do COVID hơn nhiều so với các nhóm tuổi khác, nhưng trẻ em đôi khi vẫn bị bệnh nặng, ngay cả những trẻ không có bệnh lý tiềm ẩn. (Phần lớn trẻ em từ 6 tháng đến 11 tuổi nhập viện từ tháng 1 đến tháng 6 năm nay (2023) đều chưa được chích ngừa Covid).
  
Theo CDC, cùng với những người lớn tuổi, trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi – còn quá nhỏ để tiêm chủng – có tỷ lệ nhập viện do COVID cao nhất. Vì vậy, cách tốt nhất để bảo vệ những đứa trẻ nhỏ nhất này là tiêm chủng cho những người xung quanh chúng. Chích ngừa Covid cũng giảm nguy cơ nghỉ học và giảm nguy cơ mắc bệnh COVID kéo dài (long Covid).
  
Không phải tất cả các chuyên gia đều đồng ý rằng cần phải chích liều vắc xin cập nhật này (booster) cho trẻ em. Có người thấy cần có thêm dữ liệu cụ thể về trẻ em và thanh thiếu niên. Có người nghĩ rằng hầu hết trẻ em đã được tiêm vắc xin COVID cơ bản (primary vaccines) và khỏe mạnh có thể sẽ không nhận được nhiều lợi ích hơn từ việc tiêm thêm một mũi nữa.
 
Giám đốc chương trình y tế công cộng (surgeon general) tiểu bang Florida, theo đường lối chống vắc xin của thống đốc DeSantis, lại khuyên người dưới 65 tuổi không nên chích mũi booster này. (Washington Post, 16 tháng 9); việc này làm giới y tế Hoa Kỳ “lo ngại”.
  
Phụ huynh nên bàn với bác sĩ của cháu nếu do dự về vấn đề này. Hiện nay, CDC cũng đang dự tính giảm thời gian cách ly cho Covid từ 5 ngày xuống còn 24 giờ nếu bệnh nhân không sốt và triệu chứng nhẹ và tiếp tục thuyên giảm.
 
Năm tháng sau bài viết trên và lúc nước Mỹ đang giữa mùa đông, theo một bản tin của tờ báo lớn của Mỹ New York Times, có vẻ như cả thế giới đều tránh né chích ngừa mũi booster Covid cho trẻ em, trái với lời khuyên của CDC. Vì đây là một vấn đề nhạy cảm, tôi xin dịch nguyên văn bài viết và chỉ thêm một vài giải thích ngắn giữa các dấu ngoặc để độc giả rộng đường suy luận, nhất là trong thời gian năm nay trước khi bầu cử tổng thống, những thế lực chính trị đảng phái có những lập trường đối nghịch về vấn đề chích ngừa và có rất nhiều tin giả, tin sai lạc về vấn đề này.
  
Dưới đây là bản dịch:
 
“The C.D.C., ignored”, by David Leonhardt, ngày 13 tháng 2 năm 2024
 
Phần lớn thế giới đã quyết định rằng hầu hết trẻ nhỏ không cần tiêm vắc xin tăng cường Covid. Điều đó đang xảy ra ở Anh, Pháp, Nhật Bản và Úc. Một số nước, như Ấn Độ, đã đi xa hơn. Họ nói rằng đối với những đứa trẻ khỏe mạnh về các mặt khác thậm chí không cần phải tiêm những mũi sơ khởi của vắc xin Covid. Ở Đức, các chuyên gia y tế công cộng không khuyến nghị tiêm vắc-xin cho bất kỳ trẻ em nào, kể cả thanh thiếu niên, trừ khi chúng có một bệnh nào đó làm chúng đề kháng yếu hơn. Các nhà khoa học ở các nước này hiểu rằng vắc xin Covid có hiệu quả cao. Nhưng các chuyên gia đã kết luận rằng lợi ích mang lại cho trẻ em thường không bù đắp được giá phải trả. Lợi ích rất khiêm tốn vì khả năng trẻ em bị bệnh nặng do Covid rất là ít và khả năng lây truyền vi rút từ chúng qua người khác ít hơn hơn người lớn. Giá phải trả bao gồm chi phí tài chính của việc tiêm chủng hàng loạt, khả năng tác dụng phụ của mũi tiêm sẽ khiến trẻ bệnh đến mức phải nghỉ học, khả năng rất nhỏ xảy ra các tác dụng phụ nghiêm trọng hơn và sự không chắc chắn cố hữu về tác dụng lâu dài.
  
Hoa Kỳ – như độc giả Mỹ có lẽ đến đây đã nhận ra trong bản tin này – là một ngoại lệ toàn cầu. C.D.C. kêu gọi tiêm nhắc lại (booster) cho tất cả trẻ em từ sáu tháng tuổi trở lên. Tuy nhiên, khuyến nghị đã không có mấy kết quả. Thay vào đó, hầu hết các bậc cha mẹ Mỹ đã chọn cách bác bỏ lời khuyên của C.D.C. Chỉ có khoảng 40% trẻ em dưới 12 tuổi đã được tiêm vắc-xin ngừa Covid và chỉ có khoảng 5% được tiêm vắc-xin tăng cường (booster). Tình huống này là một trường hợp nghiên cứu điển hình về những thiếu sót trong chính sách Covid của Hoa Kỳ: Cách tiếp cận nghiêm ngặt đối với một vấn đề mang nhiều sắc thái đã phản tác dụng, nuôi dưỡng sự hoài nghi về chuyên môn khoa học trong khi không làm được gì nhiều để cải thiện sức khỏe cộng đồng. Tiến sĩ Francis Collins, người từng đứng đầu Viện Y tế Quốc gia nay đã nghỉ hưu, thừa nhận vấn đề lớn hơn vào năm ngoái khi ông nói rằng các chuyên gia đã sai lầm trong thời kỳ đại dịch khi có “quan điểm rất hạn hẹp về thế nào là một quyết định đúng đắn”.
  
Việc đóng cửa trường học kéo dài hàng tháng gây tổn hại cho việc học tập của học sinh là một ví dụ. Các yêu cầu mang khẩu trang trong thời gian dài bị nhiều người lơ đi lại là một ví dụ khác. Một C.D.C tiếp tục khuyến nghị mâu thuẫn với thông lệ quốc tế – và bị hầu hết người Mỹ bác bỏ – đã trở thành một ví dụ khác nữa.
  
Thế nào mới hợp lý?
  
Tiến sĩ Sandro Galea, hiệu trưởng Trường Y tế Công cộng thuộc Đại học Boston, gần đây đã xuất bản một cuốn sách đưa ra phiên bản chi tiết của lập luận này. Cuốn sách có tựa đề “Trong giới hạn hợp lý” (Within Reason). Trong thời kỳ đại dịch, như Galea đã nói với tôi, các chuyên gia y tế đôi khi áp dụng “một hệ tư tưởng không phóng khoáng” (illiberal ideology). Hệ tư tưởng này tưởng tượng con người là những người robot chỉ tồn tại với mục đích duy nhất là giảm thiểu các nguy cơ nhiễm virus.
  
Trên thực tế, như Galea đã chỉ ra, xã hội thường xuyên quyết định rằng đến một mức nào đó, gia tăng thêm mức độ an toàn không còn là một việc đáng làm nữa. Chẳng hạn, người lái xe hơi và hành khách sẽ an toàn hơn nếu họ đội mũ bảo hiểm, nhưng ai lại đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe hơi (trừ trường hợp xe đua vì khả năng tai nạn quá cao)?
  
Trong trường hợp của Covid, việc tiêm nhắc lại (booster) cho trẻ em thực sự có lợi ích. Một số lợi ích có lẽ còn lớn hơn đối với trẻ em Mỹ vì chúng có nhiều khả năng bị béo phì (làm giảm khả năng miễn nhiễm, cơ thể phòng thủ kém hơn) hoặc thiếu bảo hiểm y tế hơn trẻ em ở những nơi khác (so với các nước có bảo hiểm cho mọi người như Canada, Pháp, Nhật). Tiến sĩ Nirav Shah, phó giám đốc chính của CDC, nói với tôi khi bảo vệ khuyến nghị chích liều vắc xin tăng cường: “Mặc dù trẻ em có nguy cơ thấp hơn, nguy cơ đối với chúng không phải là số không”.
  
Nhưng cũng có những mặt trái của việc thúc giục các biện pháp y tế mà hầu hết mọi người đều phản đối, Galea lưu ý. Chỉ khi lợi ích của việc làm đó là lớn (như trường hợp nhận thức về việc hút thuốc trong thế kỷ 20) thì các chuyên gia mới nên cố gắng thay đổi suy nghĩ của mọi người.
  
Dữ liệu khoa học – và sự đồng thuận của các chuyên gia ở các quốc gia khác – khiến khó có thể tranh luận rằng lợi ích của việc chích liều vắc xin booster cho trẻ em là rất lớn. Tiến sĩ Peter Collignon của Đại học Quốc gia Úc nói với tôi: “Tôi không nghĩ ở Hoa Kỳ họ đã hiểu đúng phương trình rủi ro-lợi ích đối với trẻ em”.
  
(Dữ liệu của CDC cho thấy trẻ em có nguy cơ mắc Covid cao nhất là trẻ sơ sinh, những trẻ này không đủ điều kiện tiêm vắc xin ngay cả ở Hoa Kỳ vì hệ miễn nhiễm ở 6 tháng đầu đời không có khả năng đáp ứng với thuốc vắc xin Covid. Thay vào đó, chúng có thể được hưởng lợi từ việc tiêm phòng trước khi sinh của người mẹ.)
  
Galea tin rằng hậu quả lớn nhất đối với chính sách chích vắc xin booster Covid của Hoa Kỳ có thể là ảnh hưởng của nó đến uy tín của CDC. Khi những người vốn đã hoài nghi về lời khuyên của chuyên gia, giống như nhiều người Mỹ, thấy CDC nhấn mạnh vào việc áp dụng một loại vắc xin có lợi ích tương đối nhỏ, họ có thêm lý do để đặt câu hỏi về các hướng dẫn khác của C.D.C. chẳng hạn như tầm quan trọng cấp bách của vắc xin phòng bệnh sởi (measles, trong vắc xin MMR) và bạch hầu (diphteria) cho trẻ em. Galea nói: “Có một giá thật sự mà chúng ta phải trả nếu chúng ta không trung thực.”
  
Khi tôi hỏi các chuyên gia y tế công cộng về việc họ đang làm gì đối với con mình, họ có xu hướng thành thật. Hầu hết tất cả đều đã tiêm phòng Covid cho con mình, vì lợi ích của cả những đứa trẻ đó và những người khác. Đồng thời, một số chuyên gia nói với tôi rằng họ chưa chích booster cho con cái.
   
Tại sao? Những lợi ích có vẻ nhỏ đối với tất cả mọi người. Cái giá phải trả – như nỗi sợ kim tiêm của một đứa trẻ hoặc nghỉ học vì tác dụng phụ – cũng có vẻ nhỏ. Với một quyết định sát sao như vậy, những bậc cha mẹ hiểu biết sẽ đưa ra những quyết định khác nhau, và điều đó vẫn là chấp nhận được.
  
Có lẽ CDC sẽ có tác động lớn hơn nếu nó truyền tải một thông điệp thẳng thắn tương tự như vậy (thay vì khăng khăng yêu cầu chích booster cho mọi trẻ em).
 
Chú thích: Những câu trong dấu ngoặc là của BS Hồ Văn Hiền.
 
 
– David Leonhardt
Bác sĩ Hồ Văn Hiền dịch, 14/2/2024
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu có thể kéo dài tuổi thọ hoặc thậm chí là bất tử, liệu chúng ta có thực sự muốn điều đó không? Trong cuốn sách mới có tựa đề “Why We Die: The New Science of Aging and the Quest for Immortality” (Tạm dịch “Tại Sao Chúng Ta Chết: Phát Hiện Mới Về Lão Hóa và Đi Tìm Sự Bất Tử”), Venki Ramakrishnan, khoa học gia về sinh học phân tử đoạt giải Nobel, đã sàng lọc các nghiên cứu từ trong quá khứ đến tiên tiến nhất để tìm hiểu những lý thuyết kéo dài tuổi thọ cùng với những hạn chế thực tế. Trong quá trình tìm hiểu, ông cũng đặt ra các câu hỏi quan trọng về những vấn đề liên quan đến xã hội, chính trị và đạo đức của những nỗ lực đi tìm sự sống vĩnh cửu.
Diễm biến mất. Giáo sư nói với tôi con người không thể tự biến mất. Bà hỏi chủ tiệm tóc kỹ hơn, cô chủ tiệm nói lý do cô khẳng định Diễm “biến mất”, là vì tất cả bạn bè của Diễm ở Bình Tân, ở thị trấn, ở quê của mẹ, đều cùng một thời điểm đột ngột mất liên lạc với Diễm. Không phải là chặn Zalo hay block Facebook, mà đơn giản là biến mất. Chủ tiệm tóc có vài học trò học xong nghề cũng lên mở tiệm hoặc làm thuê gần Bình Tân, Quận 12, là những chị Diễm thường ghé ở nhờ mỗi khi lên Sài Gòn. Họ đều nói họ mất liên lạc với Diễm cùng một thời điểm.
Một cậu bé 16 tuổi nâng nguyên một chiếc Volkswagen lên để cứu hàng xóm bị kẹt dưới xe. Người mẹ dũng cảm chiến đấu với gấu Bắc Cực để bảo vệ con mình. Cô con gái lôi chiếc máy kéo bị lật đè trên người cha ra. Những kỳ tích này được thực hiện nhờ có một lượng adrenaline tăng vọt và giải phóng các hệ thống của cơ thể cũng như năng lực của cơ bắp, vốn chỉ có thể ‘xuất toàn lực’ trong những tình huống căng thẳng cực độ.
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Là một khoa học gia nghiên cứu về cảm giác đói và việc kiểm soát cân nặng, Zachary Knight, Giáo sư Sinh lý học, Viện Khoa học thần kinh cơ bản Kavli, Đại học California, San Francisco, quan tâm đến cách bộ não thông báo cho chúng ta biết khi chúng ta đã ăn đủ no. Khi bắt đầu cảm thấy no, chúng ta sẽ ăn chậm lại. Trong nhiều thập niên, các khoa học gia cho rằng sự thay đổi tốc độ này được điều khiển duy nhất bởi các tín hiệu từ dạ dày và ruột đến não. Nhưng một nghiên cứu mới từ phòng thí nghiệm tại UC San Francisco chỉ ra rằng, trên thực tế, có một quá trình khác đang diễn ra, và nó bắt đầu ngay từ khi chúng ta nếm thử thức ăn.
Trong cuộc sống, tình yêu không chỉ đến từ các mối quan hệ lãng mạn mà còn có thể xuất hiện trong gia đình, bạn bè và các mối quan hệ xã hội khác. Tình yêu và các mối quan hệ lành mạnh đều mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe thể chất và tinh thần của chúng ta, bất kể là tình yêu trong sáng hay lãng mạnh. Theo Stephanie Cacioppo, một nhà khoa học thần kinh tại Đại học Oregon, tình yêu được coi là một nhu cầu sinh học thiết yếu đối với sức khỏe con người, giống như nhu cầu về nước uống, thức ăn và tập thể dục. Mặc dù trái tim thường được coi là "tội phạm", nhưng hầu hết các lợi ích liên quan đến tình yêu đều bắt nguồn từ bộ não, được lập trình tiến hóa để sản xuất và giải phóng hooc-môn khi chúng ta trải qua cảm xúc rung động, phát triển tình cảm và ước mong gắn bó.
Bất kể chúng ta đang đứng ở đâu trên Trái đất, dưới chân chúng ta đều có nước chảy len lỏi bên dưới lòng đất. Nước ngầm cung cấp nước uống cho khoảng một nửa dân số thế giới và gần một nửa lượng nước dùng để tưới, tiêu dùng, giúp giữ cho các dòng sông, ao hồ và đầm lầy tồn tại qua thời kỳ hạn hán. Nước ngầm là nguồn tài nguyên có thể tái tạo, nhưng có thể mất hàng thập niên, thậm chí hàng thế kỷ để một số tầng nước ngầm phục hồi sau khi bị cạn kiệt. Những hiểu biết hiện nay về vấn đề này chủ yếu dựa vào việc ghi lại các đo lường mực nước trong các giếng ở những địa điểm khác nhau.
Gần đây quý vị vừa bị cảm lạnh, cúm, RSV hoặc COVID, bệnh đã qua nhưng mãi vẫn không thể hết ho? Rất nhiều người bị giống như vậy. Triệu chứng này có thể tồn tại trong nhiều tuần sau khi cơ thể chúng ta đã loại bỏ vi-rút. Michael Shiloh, một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Y tế UT Southwestern cho biết những bệnh nhân bị ho thường kể là họ đã bị bịnh từ 8 tuần trước khi đến gặp ông. Ông nói: “Chúng tôi thực sự không thể phát hiện thấy vi rút gì ở những người này nữa nhưng họ vẫn bị ho.”
Để tạo ra một chai Mouton Rothschild 1945, hãy pha hai phần Château Cos d'Estornel với một phần Château Palmer và Cabernet California. Đó là mánh lới của Rudy Kurniawan, một gian thương kinh doanh rượu vang, ông ta đã pha trộn các loại rượu này rồi đổ vào những chai cũ có dán nhãn giả và bán cho những người sưu tập cả tin. Năm 2014, ông ta bị kết án 10 năm tù tại một nhà tù ở Hoa Kỳ, bị tịch thu 20 triệu MK và phải trả thêm 28 triệu MK cho các nạn nhân.
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.