Hôm nay,  

Ocean Vuong về Cơn Giận

04/07/202500:00:00(Xem: 604)
Hình-Ocean-Vương-và-sách-mới
Ocean Vương và cuốn tiểu thuyết mới nhất “The Emperor of Gladness” mới phát hành.
  
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.

Khi nỗi đau hoá thành thương yêu, khi sự mệt mỏi của kiếp người — cùng cơn giận nó sinh ra — được gạn thành lòng từ ái, thành sự chăm nom, thì ấy là nghệ thuật. Kẻ nào làm được phép chuyển hoá ấy trong lòng mình, rồi truyền lại phép ấy cho kẻ khác — bằng thơ, bằng tranh, hay chỉ bằng một cử chỉ nhẹ — kẻ đó, với tôi, mới thật là nghệ sĩ.

Không ai nói về phép hoán chuyển ấy đẹp hơn Ocean Vuong — người thi sĩ theo nghĩa rộng nhất của Baldwin.

Trong một cuộc trò chuyện dài với tạp chí The New York Times — gần như một cuộc tự vấn giữa đám đông — Ocean Vuong kể lại khởi đầu tưởng chừng bế tắc: năm mười lăm tuổi, anh từng có ý định mượn súng của bạn để bắn người. Một tên buôn ma tuý cướp mất chiếc xe đạp — phương tiện duy nhất để anh đạp tới trại thuốc lá, nơi anh cùng những di dân khác còng lưng làm việc với giá $9.50 một giờ. Dẫu được nuôi dạy trong tinh thần Phật pháp, ý muốn giết người vẫn manh nha trong đầu.

Rồi Ocean Vuong đọc Baldwin, đọc Annie Dillard tại trường học cộng đồng. Và dần dà, viết lách trở thành cách để hiểu về nỗi đau – hiểu điều gì làm ta tổn thương, vì sao ta làm tổn thương người khác, và làm sao để dừng lại.

 “Tôi lớn lên trong một thế giới nơi cơn giận, sự hung hãn và bạo lực là cách duy nhất để người ta cảm thấy mình đang làm chủ cuộc đời — nhất là khi đời sống vốn ngoài tầm kiểm soát. Nhiều người trong chúng ta đã bị thương, đã mất mát… Vì nỗi đau quá gần, tôi không thể quay lưng. Muốn sống sót, tôi phải nhìn thẳng nó. Vậy nên, hễ thấy bạo lực, tôi buộc phải nhìn kỹ rồi hỏi: ‘Nó từ đâu ra?’ Và thường, nó nảy sinh từ sợ hãi, từ yếu mềm — từ nỗi hoảng sợ khiến ta phải ra tay trước… Tôi hiểu điều ấy, vì cánh cửa dẫn đến bạo lực, với tôi, luôn được dựng bằng đau đớn. Điều thú vị là khi đứng trước cánh cửa ấy, ta tưởng nó quá lớn và không còn lối nào khác. Nhưng chỉ cần lùi một bước… ta nhận ra nó chỉ là cánh cửa trơ trọi giữa cánh đồng. Và rồi ta hiểu: chỉ cần bước qua một bên – cả thế giới đang chờ phía trước.”

“Cả sự nghiệp viết lách của tôi, suy cho cùng, chỉ là một cuộc đi vòng quanh cánh cửa đó — chậm rãi, có chủ đích.”

Trong một buổi nói chuyện khác tại City Arts & Lectures ở San Francisco, Ocean Vuong nói về chỗ đứng của cơn giận — đứa con sinh ra từ khổ đau — trong nghệ thuật. Với anh, phận sự của thi sĩ là nhìn thật kỹ vào đời sống. Và trong đó, tự nó đã ẩn chứa một an ủi dịu dàng: càng nhìn kỹ, ta càng hiểu; càng hiểu mình và người, càng bớt khổ; càng bớt trút nỗi đau của mình lên thế giới; và chỉ khi ấy, ta mới có thể chuyển hóa cơn giận của sự bất lực thành điều gì đó mềm mại hơn — nhưng bền bỉ hơn.

“Khi cơn giận trào lên: ta quăng đồ, la hét (có khi là với người mình thương), ta gục xuống đất (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng). Nhưng rồi, ta vẫn phải đứng dậy. Vẫn phải cho chó ăn, trả lời thư, vào lớp giảng dạy — nghĩa là ta phải trở lại với sự chăm sóc trong đời sống. Với tôi, chăm sóc chính là cơn giận đã được gạn lọc. Chúng cùng nằm trong một hệ sinh thái. Tôi muốn phá bỏ bức tường ngăn đôi hai điều ấy  — vì người ta cứ tưởng chúng là hai thái cực đối nghịch. Thật ra, chúng nằm kề nhau. Chúng nâng đỡ nhau.”

Ngôn ngữ là chiếc bình chứa tư tưởng và cảm xúc. Cách ta đối đãi với chữ, cũng là cách ta xử thế. Vương nói: “Nhiều nhà văn đã viết ra những điều vĩ đại nhờ năng lượng của cơn thịnh nộ. Nhưng với tôi, chính sự chăm chút mà tôi phải dành cho từng câu chữ mới là liều thuốc làm mình dịu lại. Thật khó giữ nguyên cơn giận khi tay ta đang làm việc với một thứ đòi hỏi sự chăm sóc ân cần. Nếu mỗi từ là một công dân trong quốc gia của chữ nghĩa, thì chúng sống nhờ ta biết suy nghĩ sáng suốt, biết giữ chừng mực, biết dành cho chúng lòng từ ái và phẩm giá. Và tôi sẽ mất niềm tin của chúng, nếu tôi trút cái tôi của mình lên trang giấy.”

Nhưng điểm sáng nhất — và cũng ngược đời nhất — trong suy nghĩ của Vương chính là: cơn giận không cần bị diệt khỏi đời sống nội tâm, nhưng nó không thể là nơi ta dừng lại. Nó phải là tay nắm – để mở ra cánh cửa dẫn đến lòng trắc ẩn.

 “Nếu anh không tỉnh thức, anh sẽ chẳng giận dữ. Nhưng sống trong thân xác người Mỹ hôm nay mà không phẫn nộ trước những gì đang xảy ra, thì có lẽ anh đã chết rồi. Tôi giận chứ - dĩ nhiên. Nhưng tôi phải nói điều này… Tôi không tự hào về nhiều thứ trong đời, nhưng có một điều tôi rất mực tự hào vì chưa một câu, chưa một trang nào tôi viết ra từ cơn giận. Không phải tôi không giận – nhưng khi giận, tôi không còn hữu ích – với tư cách người viết, người nghệ sĩ.”

Một phần cốt lõi trong phận sự của người nghệ sĩ là phải tự mình tìm ra — rồi trung thành — với cái cách mà ta có thể hữu ích nhất cho đời.

Việc ấy đòi hỏi can đảm, nhất là trong một xã hội đầy rẫy những kẻ tự phong cho mình nhiệm vụ “giữ ngọn đuốc đạo đức”– luôn chỉ vào mặt người khác mà nói: “Anh nên viết về cái này”, “Cô phải đấu tranh cho cái kia”, “Tác phẩm tốt là phải nói điều này điều nọ.” (Hãy dè chừng những ai luôn ra lệnh người khác nên dâng hiến gì cho nhân loài.)

Bởi làm nghệ sĩ, suy cho cùng, là một lời thề với đồng loại: rằng dẫu đời có xô lệch, có mài mòn đến đâu, ta vẫn không biến thành ai khác ngoài chính mình.

VB biên dịch
Nguồn: bài “Ocean Vuong on Anger” của Maria Popova — The Marginalian
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Cơn mưa di tản trở về giữa quá khứ và hiện tại, giữa người chết và người sống. Đó là lăng kính mà mọi thứ đã được chắt lọc qua. Những năm tháng trở nên trong suốt như nước. Những gì chúng ta thấy là những hình dạng mờ nhạt đang trôi về nguồn. Tất cả những viễn cảnh và cách diễn giải của chúng ta khi chúng ta quay trở về là đường nét chuyển động của người khác. Để tồn tại, chúng ta đã di tản qua thời gian, và để nói, chúng ta học ngôn ngữ của mưa.”
Bạn tắt hết điện thoại, truyền hình, bạn gập lại các quyển sách đang đọc. Bạn ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, khóa kín cửa, hay bạn ngồi trên một tảng đá trong rừng, hay bạn ngồi giữa chợ, điều ấy không quan trọng. Bạn không cần phải thực hành bất kì một lễ nghi tôn giáo, yoga hay thiền nào cả.
Một trong những thành tựu quan trọng đáng tự hào của cộng đồng người Việt là sự thành công của những cây bút người Mỹ gốc Việt, kể câu chuyện Việt góp phần vào nền văn học lưu vong Việt Nam cũng như góp mặt vào dòng văn học chính Hoa Kỳ. Bài giới thiệu sách này thuộc loạt bài giới thiệu các tác giả, tác phẩm thuộc dòng văn học thế hệ thứ nhất-thứ hai, trong thời điểm 50 Năm Nhìn Lại, từ biến cố tháng Tư, 1975.
Bạn có thích đọc thơ không? Người ta nói, mỗi người Việt là mỗi nhà thơ. Nhà thơ sao lại không đọc thơ? À, như vậy, bạn có đọc thơ. Dĩ nhiên bạn thích đọc thơ hay. Nhưng làm thế nào để biết bài thơ hay? Có bài thơ được nhiều người khen hay quá trời, sao bạn lại nghĩ là dở. Hoặc bạn hí hửng khoe bài thơ hay vừa đọc được, người bạn đọc xong, lắc đầu. Sao vậy? Thơ hay không bảo đảm người đọc đồng ý với nhau. Hãy hỏi bạn Trí Thông Minh Nhân Tạo (A.I.), trông cậy anh ta biết nhiều, hiểu rộng, có thể cho đôi lời vắn tắt.
Tôi có một thói quen xấu khi đọc sách – luôn bắt đầu bằng cách mở trang cuối và đọc hàng cuối rồi gấp sách lại xem đầu óc mình nghĩ gì. Hôm nay, mở cuốn “Stories from the Edge of The Sea”, cuốn sách dày 216 trang với 14 truyện ngắn của tác giả người Mỹ gốc Việt Andrew Lâm, tôi lẩm nhẩm: “Hãy đứng đến giây phút cuối cùng, và bạn sẽ không bao giờ, không bao giờ phải đứng một mình.“* “Giây phút cuối cùng”? Không hiểu sao hình ảnh Việt Nam những ngày cuối tháng Tư, 1975 hiện về. Dẫu chỉ là một đứa bé con 6 tuổi vào thời điểm này, nhưng lớn lên và sống với những hệ lụy lịch sử kéo dài từ cái ngày định mệnh đó, ngay trên mảnh đất quê hương bị đánh mất, những mảng đời, những câu chuyện, những ám ảnh, những mất mát luôn là những gì mà chính tôi, bạn bè tôi, gia đình tôi, quê hương, dân tộc tôi, vẫn gồng mình hứng chịu… dẫu nửa thế kỷ đã trôi qua. Tôi hiểu mình sẽ bắt đầu đọc cuốn sách này bằng một sự “khó ở” trong lòng của một độc giả người Việt sống xa quê hương, trong tâm trạng u uẩn
Cô lớn lên như một đứa con gái tomboy, đánh gậy bóng chày giỏi hơn thằng em trai mình, có thể đá văng cặp kính ra khỏi mặt một thằng con trai, và vì thế cô không gần với mẹ lắm. Cô chẳng thấy mẹ mình có gì đáng yêu kính. Bà là người với một thân hình đẫy đà, có tật ngồi lê đôi mách, luôn tay luôn chân công việc nhà cửa, lại nợ nần cờ bạc, chẳng bao giờ thích hoạt động ngoài trời, vì quá quan tâm đến những chuyện trong gia đình nên bà chẳng hề đi đâu thăm thú thế giới, đại dương này nọ, ví dụ, bầu trời xanh chẳng có gì cho bà quan tâm, thấy thú vị.
Hôm nay 17 tháng 3, 2025, dân chúng Canada tạm biệt Justin Trudeau. Tôi yêu mến thủ tướng và tự hào về ông. Trudeau nói: Dân chủ không phải được ban cho, tự do không phải được ban cho, Canada cũng không phải được ban cho. Bạn phải giành lấy chúng bằng tất cả lòng can đảm, sự hy sinh và công việc cần mẫn mỗi ngày.
Vào đầu tháng 3, 2025 xem chương trình The Jimmy TV trên YouTube trò chuyện với nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, cụ bà năm nay 86 tuổi nhưng vẫn còn minh mẫn trò chuyện với nhau. Gần sáu thập niên qua, Hè năm 1967, sau bốn tháng học Quân Sự trong giai đoạn I cùng với Khóa 24 ở Truồng Bộ Binh Thủ Đức, Khóa Nguyễn Trãi I thuyên chuyển về Trường ĐH. CTCT ở Đà Lạt. Vào thời điểm đó Vòng Tay Học Trò của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng đã tái bản nhiều lần gây xôn xao trong dư luận và dĩ nhiên thu hút độc giả nơi nầy vì nhân vật và bối cảnh xảy ra trên mảnh đất nầy.
Một buổi chiều, từ rất lâu rồi, tôi thấy mình đơn độc trên bãi biển Vũng Tàu, Việt Nam, một thành phố biển gần Sài Gòn, đứng nhìn ra khơi. Chiến tranh ngày một tệ hơn. Huế và Đà Nẵng đã thất thủ. Tiếp theo là cao nguyên Trung Phần. Sài Gòn đang hoảng loạn. Quân đội cộng sản đang tiến quân mà không bị cản trở. Tôi mới mười một tuổi và khá nhỏ con so với tuổi của mình. Bãi biển gần như vắng tanh. Gió và sóng như thét gào bên tai tôi. Với hai cánh tay dang rộng, tạo thành những hình thù kỳ lạ trên không, tôi lớn tiếng tụng niệm những câu thần chú.
Nhật Bản là một nước Phật giáo, mà cách đây một thời gian theo thống kê của Bộ Giáo dục Nhật, những người theo Phật giáo chiếm đại đa số và đúng theo lịch sử truyền bá và phát triển, Phật giáo đến nước nào thì mang sắc thái văn hóa của nước đó. Cho nên, Phật giáo khi vào Nhật Bản cũng mang một số sắc thái riêng. Nay có tác phẩm Bồ-tát Quan Âm - Tín Ngưỡng & 50 Tượng Tuyến ở Nhật Bản của nhà nghiên cứu Bùi Chí Trung, người đã sống và làm việc lâu năm tại quốc gia này sẽ cung cấp cho chúng ta một số thông tin quý báu về những nét rất riêng của Phật giáo Nhật Bản...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.