Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Bố Vợ

31/08/202413:44:00(Xem: 1680)

3849

 

 

Anh bưng chén canh lên, múc một nửa thìa, chăm chú từ tốn đưa vào miệng bố vợ, người bị bệnh hơn một năm nay, không kiểm soát được hành động bản thân.

Ông Tri vung tay hất đổ chén canh, vỡ nhiều mảnh trên nền nhà, tung toé mùng tơi và tôm khô. Ông đưa tay lên lần thứ hai, muốn tát vào mặt con rể. Anh nắm tay ông lại. Lòng tung tóe giận dữ. Ánh mắt giết người làm ông sợ hãi. Rụt tay lại. Quay mặt vào vách. Anh hít một hơi đầy, thở mạnh ra. Xả cơn giận. Đứng lên đi dọn dẹp. Những mảnh chén vỡ làm anh nhớ lại lần đầu tiên khi anh đến nhà thăm Lài, ông Tri đã giận dữ đập vỡ tách trà vì không muốn con gái ông quen biết với người nhìn bề ngoài trông giống du đảng, tóc dài và ăn mặc không tiêu chuẩn.

Anh đậu tú tài đôi. Đêm liên hoan ăn mừng đó Lài thụ thai. Ông Tri không đường lựa chọn.

_”Anh ơi, qua giúp em. Mẹ tè đầy cả giường rồi.”
Mẹ Lài bị đột quị hai năm trước. Bất toại. Bất động. Lài chỉ săn sóc mẹ, không dám đến gần bố vì ông hay nổi giận, đánh đập người cạnh bên.

Những ngày vui, những chuyến du lịch, những buổi hẹn hò bạn bè, những đêm lãng mạn, những nụ hôn kiểu Pháp, kiểu Nam Hàn, kiểu Việt Nam, đã biến mất, những cánh chim ấy đã biền biệt bay về phương xa ấm áp, để lại mùa lạnh quanh năm trên cuộc sống của anh với nhiều đêm đông đá.

Nhưng sức người có hạn, nhất là gần đây ông Tri hay tát tai anh. Chưa có ai đánh anh, kể cả bố mẹ ruột. Lần trước, sau khi bị tát tai, anh đã ghì hai tay ông xuống gối, kề mặt sát vào mặt ông, hai mắt thò lỏ, nghiến răng: _”Nếu bố còn đánh tôi lần tới, bố sẽ không bao giờ cử động nữa, biết chưa.” Ông gật đầu, có biết gì không? Tay vẫn giật giật.

Vợ tôi không biết bản án treo. Chỉ biết khóc khi nghe tôi kể bị tát tai. Nuôi hai người già liệt và bệnh bằng nuôi một đàn trẻ nít mồ côi. Bận rộn đến nỗi nhiều ngày phải nhịn ăn, nín đi cầu. Bỏ tắm là việc bình thường. Nhiều khuya thức giấc, tôi ngửi được mùi khai nước tiểu trên tóc Lài.

Rồi chuyện đó xảy ra. Chiếc xe cứu thương đậu trước nhà. Từ xa, tiếng hú gọi lên chút gì hối hận của lương tri. Ánh đèn đỏ rực láo liên, quay cuồng, ánh sáng thẩm vấn trái tim của bất kỳ kẻ gian ác nào cũng đều có chút lương thiện. Không phải anh. Anh hoàn toàn vô tội. Khi bước vào phòng, đã thấy ông Tri trợn mắt, tay chân giãy đập, có vẻ nghẹt thở. Không kịp kêu vợ, anh phóng tới, thực hành hô hấp nhân tạo, sợ không kịp, anh phải thổi hơi vào miệng ông. Sau khi thấy ông thở khá hơn, anh cắm bình dưỡng khí, bật máy trợ tim, gọi vợ, gọi xe cứu thương, ngồi bệt xuống sàn. Bây giờ, một cảm giác nhám xàm, khô rang, hôi nồng nặc từ miệng bố vợ đã thâm nhập vào tận bản ngã của anh.

Từ bệnh viện về. Bố ở lại để kiểm tra. Sau khi tắm rửa cho mẹ, Lài vào phòng pha nước nóng trong bồn rồi nằm xuống. Kỳ diệu như lần tắm nước ấm từ suối nước nóng ở Kyoto, một chuyến du lịch để đời với chồng ở Nhật Bản. Bồn chật nhưng cảm giác lênh đênh, mơ mòng, xa vắng. Tia ấm xuyên vào từng lỗ chân lông. Trời ơi, thoải mái quá. Trí óc lịm đi một lúc, giật mình khi chồng bước vào. Lâu quá mới thấy ảnh khỏa thân dưới ánh đèn. Mệt mỏi, lừ đừ, lỏng lẻo, không giống tuổi năm mươi hắm hở thấy ngư nhân. Anh bước vào bồn, nằm ngược đầu với vợ. Nhưng từ từ anh rơi vào giấc ngủ. Một giấc ngủ say không bị bố vợ đánh thức bất ngờ.

Nuôi hai người già liệt và bệnh là tình thương của Lài, là nghĩa vụ của anh, là tình yêu của anh cho Lài. Tất cả sự cao cả này bóp cổ nghẹt thở và cắt đứt khoảng thời gian dài những hình ảnh màu sắc sáng tác của Thượng Đế, thay vào đó màu trắng đen, hầu hết là xám của hai xác người lưỡng tính. Gần một năm nay, anh với Lài đều bị bệnh suyễn và gần như suy nhược việc yêu nhau.

Nuôi hai người già liệt và bệnh là một chuỗi ngày chờ đợi. Mặc dù rất ít thời giờ rảnh rỗi, nhưng mỗi khi có thể, anh đều lên Amazon để mua sẵn một số đồ dùng làm tang lễ cho bố mẹ vợ, mà không cho Lài biết. “Trong trường hợp bệnh tật này, có lẽ ông bà sẽ qua đời sớm, chỉ chưa biết lúc nào.” Anh vừa ý với câu nhận xét của một người bạn chia tâm sự.

Anh thích thú khi ngồi lựa tiền vàng mã, lựa tờ 500 và 1000 đô la để dành đốt cho mẹ vợ, còn tờ 20, 50, 100 thì để đốt cho ông Tri. Anh vui được mấy ngày với ý tưởng hài hước này, nhưng rồi sau đó, lại mua chiếc xe Lexus màu đen để đốt cho bố vợ lái khi về âm phủ. Những truyền thống thiếu khoa học này vẫn là những bàn tay vuốt ve các tâm hồn thương tích.

Ông Tri đã trở về. Biết mà không mong đợi như thư đòi nợ của sở thuế. _”Em à, Hay là anh mướn hai y tá đến chăm sóc cho bố mẹ. Họ sẽ lo được một số việc trong ngày. Mình sẽ có trợ cấp của chính phủ. Như vậy, anh với em mới có thời giờ để sống.” _”Em nghĩ, đó là ý kiến hay. Mình nên sớm thực hành.”

Khốn khổ thay. Ông Tri không chịu. Y tá đút canh đút cháo, ông không chịu ăn, không nhai, không nuốt. Chỉ có con rể đút ông mới chịu ăn, dù ít. _”Bố có thể mở miệng lớn ra không?” _”Ứ ừ.” Cái miệng to hó một lỗ méo không răng, chẳng làm sao đút cho gọn gàng. Bữa ăn nào cũng nhểu nhão, ướt chăn, ướt gối, ướt cổ, ướt ngực. Đút ăn đã nhọc, dọn dẹp sau bữa ăn càng bèo nhèo. Đôi ngày, thế nào cũng có bữa hất chén. Anh đã mua chén nhựa. Có điều, ông không còn tát tai anh nữa, nhưng lợi dụng những khi có dịp, ông bấm hoặc véo vào tay anh, mắt mở trừng trừng nhìn trần nhà, không có vẻ giận dữ như người bệnh Dementia, mà tỏa ra khoái trá.

Những lúc đó, anh không chống đỡ được vì anh mắc tắm cho ông. Anh và ông không thích nhau. Điều này chắc chắn. Anh và ông liên hệ mật thiết với nhau. Điều này cũng chắc chắn. Anh không hiểu, một người đàn ông như ông Tri lại có thể sinh ra một đứa con tử tế, nhân hậu như Lài. Như một món ăn chay đơn giản và dở, ông Tri không có gì đáng nhớ. gặp mặt, quay lưng là quên ngay. Từ khi bị bệnh, món ăn lại càng tệ hơn. Có mùi thiu và không chừng lên mốc.

Mỗi khi tắm rửa cho ông, lúc phải rửa kỹ bộ phận sinh dục, ông Tri có hôm cười rúch rích, có bữa cười tô hô, có lẽ như trẻ em bị nhột, nhưng dần dần anh khám phá ra, không phải nhột. Có điều gì khoái chí đang lồng lộng. Anh nhớ lại một tiểu thuyết đã đọc, ông chủ già đồn điền hành hạ anh nô lệ, bắt anh phải phải ăn phân của ông vì vợ ông có tình ý với anh. “Có lẽ, mình cũng là nô lệ dù vô tội, “ anh nghĩ thầm.

Sau khi tắm rửa, thay đồ ngủ cho bố vợ, anh bồng ông lên giường, đắp mền, hạ đèn đầu giường mờ  xuống. Trong những lúc này, ông Tri thường im lặng, không cử động nhiều, mắt mở nhưng có vẻ không phải để nhìn. Anh mở máy để có thể theo dõi ông từ phòng ngủ của mình, rồi quay lưng đi ra. Lúc bây giờ, mắt ông Tri mới trở nên linh hoạt. Ông lấy tay tát vào không khí hai ba cái. “Anh tưởng làm con tôi có bầu là tôi phải chịu thua hay sao? Tôi đã nhẫn nhục chờ bấy lâu, anh phải đền tội. Tao phải đánh mày. Tao phải véo mày. Mày phải bưng cứt đổ đái chùi dái cho tao. Bệnh biến chứng của tao còn lâu bác sĩ mới biết.”

Ngu Yên.
Truyện ngắn 1529 chữ. 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cuốn sách này không ở đâu có, kể cả thư viện quốc hội Hoa Kỳ. Chỉ bạn có và người Việt có. Nhưng bạn không thể đọc hết hơn ngàn trang trong một lần. Chỉ đọc bài nào vừa ý. Những bài khác cứ hẹn tái ngộ, vì, có khi, một hôm bạn sẽ thích một bài mà bạn không thích trước đây. Có thích mới muốn đọc nhưng thích là động lực tâm tình giới hạn trí tuệ.
Trong số khách đến viếng chùa, có người con gái chừng độ tuổi trăng tròn, không son phấn điểm trang, nhưng nàng trông thật diễm lệ. Nàng nâng niu từng cành hoa mẫu đơn. Trong lúc sơ ý nàng vướn gẫy một cành hoa. Người coi vườn bắt trói nàng đòi tiền chuộc tội.
Lần cuối, nghĩa là lần mới nhất, không phải là lần cuối cùng, tôi gặp Trương Vũ tại nhà của Trần Vũ, khi Trương Vũ ghé Quận Cam, trước khi anh bay lên Bắc California để thăm chị ruột của anh, họa sĩ Trương Thị Thịnh. Lúc đó là, có lẽ năm ngoái. Lúc đó, mối giao tình của Trương Vũ và tôi đã trải rộng từ hơn ba thập niên, từ những ngày tôi còn ở Miền Đông Hoa Kỳ. Thời xa xưa, tôi gọi anh bằng tên là anh Sơn, anh Trương Hồng Sơn, khi nhìn anh như một nhà khoa học. Và nhiều năm sau, khi đọc nhiều bài viết của anh trên Văn Học và Hợp Lưu, tôi gọi anh qua bút hiệu là Trương Vũ. Rồi vài năm gần đây là nhìn anh như họa sĩ. Thời gian đã cho anh hiển lộ qua nhiều tài năng, và với rất nhiều tóc bạc. Nhưng nụ cười của Trương Vũ vẫn hiền lành, đôi mắt vẫn tinh anh, cử chỉ và thái độ vẫn luôn là từ tốn, cẩn trọng, dịu dàng.
Trải qua gần bảy thập niên, từ cuối thập niên 1950’ đến nay, trong lãnh vực báo chí và văn chương, tên tuổi Trần Dạ Từ, Nhã Ca nổi bật, quen thuộc với giới báo chí, văn nghệ sỹ và độc giả từ miền Nam Việt Nam ở hải ngoại. Với nhiều bài viết về Trần Dạ Từ trên nhiều khía cạnh trong sự nghiệp và sáng tác nên nếu viết cũng là sự lặp lại, vì vậy trong bài viết nầy trích dẫn bạn văn, bạn tù đã sống gần gũi nhau đã viết về ông, nhất là bạn tù.
Măc dầu câu kết của hai bài thơ của họ Thôi và ho Lý đều kết thúc bởi câu “sử nhân sầu” Nhưng cái buồn của họ Thôi, cái buồn của người hiểu thế sự. Cái buồn của họ Lý là cái buồn tích cực nhập thế. Họ Thôi thì nhớ về quê hương còn họ Lý thì nhớ thủ đô Tràng An. Như vậy xem ra mối sâu của Thôi Hiệu và của Lý Bạch không giống nhau. Hai bài thơ có những ưu điểm riêng, bổ túc cho nhau.
Bài thơ Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường vào đầu thế kỷ XIX của khuyết danh chỉ đề cập tổng quát, được đề cập nhiều (Sau nầy có bài thơ của Nguyễn Bính nhưng không có gọi tên phố phường). Tác phẩm Hà Nội 36 Phố Phường của nhà văn Thạch Lam (1910-1942) ấn hành năm 1943 được phổ biến rộng rãi, được mọi người biết đến nếp sống, sinh hoạt… của Hà Nội xa xưa.
Nhà thơ Đinh Hùng sinh ngày 3/7/1920, làng Phượng Dực tỉnh Hà Đông. Ông là con út trong gia đình gồm sáu anh chị em: anh cả là Đinh Lân, các chị là Loan, Yến, Hồng, Oanh. Chị Đinh Thục Oanh lập gia đình với nhà thơ Vũ Hoàng Chương (1915-1976). Đinh Hùng theo bậc tiểu học tại trường Sinh Từ, rồi bậc trung học tại trường trường Bưởi, Hà Nội. Và sau khi đậu bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Diplôme d’Étude Primaire Supérieurs Franco-Indigène) thường gọi là bằng Thành Chung. Ông được học bổng tiếp tục đèn sách để thi Tú Tài bản xứ thì “Thần Ái tình đã hiện đến cùng một lúc với sự thành công đầy hứa hẹn” (theo lời kể của ông anh rể Vũ Hoàng Chương), khiến ông bỏ ngang để đi viết văn, làm thơ. Năm 1943, ông xuất bản tập văn xuôi Đám Ma Tôi nhưng sau đó nổi tiếng với bài thơ Kỳ Nữ. Năm 1944, nhà thơ Vũ Hoàng Chương cưới bà Thục Oanh đưa về Nam Định sinh sống, ông ở lại Hà Nội và cho ra đời giai phẩm Dạ Đài, và năm này, ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thanh về Thái Bình dạy học.
Cha anh, ông Thụ, là một người trung bình về mọi phương diện. Ưa thích quyền lực nhưng không thỏa mãn. Quyền lực mà ông có nhiều nhất là đối với vợ con. Đứa con trai duy nhất, “Em à, số vợ chồng mình thật xui. Có một đứa con mà nó lại sống ở trên mây.” _”Còn hơn nó chết à?” Thú vui lựa chọn của ông Thụ là tập bắn súng. Súng trường, súng lục, súng nào ông bắn cũng giỏi. Đã đoạt một số giải thưởng bắn thi. Và dĩ nhiên, ông muốn truyền tài năng này cho con trai. Năm 17 tuổi anh đã đoạt giải quán quân về tầm bắn xa 200 mét. Khi anh đeo dây huy chương trên cổ, tay cầm cái cúp giải thưởng, cha anh đã ôm anh thật chặt, Hơi nóng ấm áp chuyền qua làn áo vải. Ông đã tìm thấy ông và anh đã tìm thấy cha. Tính tình cha con anh có nhiều chuyện khác nhau, từ sở thích đến suy nghĩ. Khi còn nhỏ, anh không thích ăn thịt. Ông ăn thịt bò bíp-tết hai ngày mỗi tuần. Mỗi lần ăn, ông cắt thịt ra từng mảnh nhỏ, bắt anh hả miệng và đút vào. _”Nhai đi.” Cùng một cách ra lệnh, _”Nghĩ đi”, _”Làm đi”, _”Thở đi” _Số
Mẹ tôi, sinh nhật nào cũng bốn cây bạch lạp thắp sáng, năm nào bà cũng bốn mươi tuổi, không già hơn. Sinh nhật năm nay cũng vậy. Đàn cháu hát hăm hở Happy Birthday mừng bà nội. Mừng điều gì, tôi không biết. Sống lâu? Bà gần như không bao giờ chết. Xinh đẹp? Bà có bao giờ thay đổi đâu. Khỏe mạnh? Bà sẽ không bao giờ bệnh. Có lẽ con gái tôi biết được điều gì tôi không biết. “Chúc bà nội năm nay có tình yêu.” Cả đám con cháu cười vang kèm theo tiếng vỗ tay. Mẹ cười âu yếm. Trong căn phòng khách này, tôi là người già nhất và là người lạc hậu nhất.
LTS: Nhà văn Dương Nghiễm Mậu qua đời lúc 21 giờ 35 phút tối, giờ VN, ngày 2 tháng 8 năm 2016 (nhằm ngày 30 tháng 6 năm Bính Thân) tại Sài Gòn, hưởng thọ 81 tuổi. Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh ngày 19 tháng 11 năm 1936 tại quê nội làng Mậu Hòa (quê ngoại làng Dương Liễu), huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Lập gia đình năm 1971, với Hồ Thị Ngọc Trang, giảng viên Anh ngữ. Sau 30/4/1975 bị bắt giam. 1977 đươc tạm tha. Từ 1977, học nghề sơn mài và sống bằng nghề này tại Sài Gòn. Từ 12 đến 18 tuổi sống ở Hà Nội. Học tiểu học ở trường Hàng Than, trung học, Chu Văn An, viết đoản văn, tùy bút cho báo trường và các báo có phụ trang văn nghệ học sinh. 1954 di cư vào Nam với gia đình, năm đầu ở Huế, năm sau ra Nha Trang, hè 1957 vào sống hẳn Sài Gòn. Từ 1957 trở đi Ông viết nhiều: tạp văn, tùy bút, đoản văn, truyện ngắn, truyện dài. Nhân ngày giỗ thứ tám, Việt Báo xin trích đăng lại nhà văn Dương Nghiễm Mậu từ tập “Tự Truyện Nguyễn Du”.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.