Hôm nay,  

Mùa Hè Cuốc Kêu

08/07/202200:00:00(Xem: 5027)

s-tch-con-chim-quc8
Hình minh họa

 

Nơi tôi ở, khi những xe bus sơn màu vàng ngưng chạy trên các nẻo đường để chở đám học trò đến trường thì coi như đó là dấu hiệu báo “mùa hè đã đến” và sẽ đem theo “cái nóng nung người nóng nóng ghê” như trong bài thơ “Vào Hè” của Cụ Dương Bá Trạc:
 
Ai xui con cuốc gọi vào hè
Cái nóng nung người nóng nóng ghê
Ngõ trước vườn sau um những cỏ
Vàng phai thắm nhạt ngán cho huê
Đầu cành gọi bạn chim xao xác
Trong tối đua bay đóm lập lòe
May được nồm Nam cơn gió thổi
Đàn ta ta gẫy khúc Nam nghe (*)
 
Thường thì người ta hay nói “tiếng ve gọi hè”, còn Cụ Dương Bá Trạc lại dùng con chim cuốc để nói về mùa hè. Tôi đã từng nghe tiếng “ve sầu rả rích” trong những mùa hè khi còn ở quê nhà. Khi qua ở đậu nơi xứ người cũng còn nghe tiếng “rả rích ve sầu” nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ nghe được tiếng kêu của loài chim cuốc. Cụ Dương Bá Trạc là một nhà cách mạng, nhà báo “khai dân trí” từng bị thực dân Pháp bắt đi tù nhiều lần nên rất nhạy cảm trước khung cảnh thiên nhiên tiêu điều dưới những cơn nắng gắt mùa hè chẳng khác nào đất nước đã rơi vào vòng nô lệ. Nhiều lần đọc bài thơ “Vào Hè” tôi chỉ thấy nhà thơ tả cảnh vật như “ngõ trước vườn sai um những cỏ. Vàng phai thắm nhạt ngán cho huê”. Huê tức là hoa. Loài cỏ cây thực vật thì như thế! Còn những loài động vật thì sao? Đây: “Đầu cành gọi bạn chim xơ xác. Trong tối đua bay đóm lập lòe”.
 
Trước cảnh nước mất nhà tan, thân nhân ly tán, bạn bè chiến hữu mỗi người một nơi, kẻ Nam người Bắc chẳng khác nào cảnh trong thơ: “Đầu cành gọi bạn chim xơ xác”. Và rồi trong hậu trường chính trị thời bấy giờ, đất nước đang chìm trong bóng tối, không thiếu những kẻ ngụp lặn trong trong đó để kiếm chút bả vinh hoa phú quý chẳng khác nào loài đom đóm lập lòe trong đêm tối mà ánh sáng của chúng không đủ để soi đường đi, chúng chỉ lập lòe trong những bãi tha ma, trên những cánh đồng hoang mộ vắng càng tạo nên hình ảnh ma quái đáng sợ. Hai chữ “lập lòe” gợi lên hình ảnh “vô minh bất chính” vậy!
 
Hai câu cuối của bài thơ “May được nồm Nam cơn gió thổi / Đàn ta ta gẫy khúc Nam nghe”, lại thấy tác giả viết: “nồm Nam”. Nồm là gió nồm. Nam là gió nam, có nơi gọi là gió nồm nam từ hướng biển đông nam thổi vào. Ở đây tác giả viết hoa cho chữ Nam. Phải chăng tác giả muốn nhắc tới việc ông, sau khi bị lưu đày ra Côn Lôn, lại được đưa về quản thúc tại An Giang (Long Xuyên) một vùng đất trù phú của Miền Nam nước Việt. Nơi đây ông tương đối được thoải mái, tự do hơn trong một thời gian ngắn chẳng khác nào được hưởng những cơn gió mát vào những ngày hè nóng gắt. Gió phương Nam đã đem lại sinh khí cho nhà cách mạng để rồi ông tiếp tục: “Đàn ta ta gẫy khúc Nam nghe”. Một lần nữa nhà thơ muốn tiếp tục truyển bá những “khúc Nam” đến cho toàn dân Việt trước cảnh tối tăm của đất nước.
 
*
Cũng với tiếng gọi vào hè của loài chim cuốc, không thể nào quên được bài thơ “Cuốc Kêu Cảm Hứng” của Cụ Nguyễn Khuyến:
 
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ (**)
 
Đọc bài “Vào Hè” của Cụ Dương Bá Trạc đã thấy buồn. Đọc bài “Cuốc Kêu Cảm Hứng” lại thấy càng buồn hơn. Tuổi của hai Cụ cách nhau gần nửa thế kỷ nhưng đã cùng chứng kiến cảnh nước mất nhà tan vào cuối thế kỷ thứ 19. Tâm trạng của cả hai Cụ đều là tâm trạng của những người dân bị mất nước nhưng mỗi người dùng ngôn ngữ thơ riêng của mình để diễn tả. Con chim cuốc trong thơ của Cụ Nguyễn Khuyến (Tam Nguyên Yên Đổ) là loài chim trong điển tích nói về Thục Đế sau khi mất nước đã hóa thành chim cuốc và cứ mỗi độ hè về trong những đêm trăng thanh gió mát lại cất tiếng kêu sầu thảm ai oán, khắc khoải và chừng như lửng lửng lơ lơ không phát ra thành tiếng. Kêu mãi gọi mãi từ đêm này qua đêm khác đến nỗi máu từ trong tim tràn ra: “Năm canh máu chảy đêm hè vắng”. Kêu mãi gọi mãi từ thanh thiên bạch nhật cho đến đêm tối tràn về. Tiếng kêu vô vọng bi thương chừng như hồn tan phách lạc dưới ánh trăng: “Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ”. Da diết đến thế! Đau thương đến thế là cùng.
 
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi / Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”. Đúng như thế! Mùa xuân đã qua đi để lại cảnh xác xơ của mùa hè ai mà không tiếc? Huống chi, “Nhớ nước vẫn nằm mơ” là tấm lòng của kẻ sĩ Tam Nguyên trong giai đoạn lịch sử khốn khó đau thương của dân tộc. Đêm dài khắc khoải nằm nghe tiếng cuốc kêu “nhớ nước” khiến “khách giang hồ”  “dạ” không “ngẩn ngơ” sao được!
 
Chưa từng nghe tiếng cuốc kêu nhưng khi đọc hai bài thơ của hai Cụ Dương Bá Trạc và Nguyễn Khuyến, tôi chừng như cũng đang nghe được tiếng cuốc kêu đâu đây quanh tôi.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.