Hôm nay,  

Nguyễn Lương Vy., đụng cái mịt mù

25/02/202114:50:00(Xem: 2727)
pic 1 NguyenLuongVy-01
Chân dung Nguyễn Lương Vỵ (Ảnh Trần Triết)

(Tưởng niệm nhà thơ Nguyễn Lương Vy.)

Có nỗi buồn man mác, có nỗi buồn hay lây, có nỗi buồn chảy máu. Tuy nhiên, nỗi buồn mất mát người thân và bạn bè là nỗi buồn xoáy chiếm tâm hồn tôi sâu thẳm nhất. Liên tiếp quanh tôi những nỗi buồn rụng xuống rồi chồng chất lên nhau chín đỏ thành những tấu khúc biệt ly. Chỉ trong 4 ngày mà hai người bạn tôi từng gặp gỡ trò chuyện đã rủ nhau đi về một nơi nào đó xa thật xa, không bao giờ trở lại. Nhà báo Phí Ích Bành là em ruột của nhà văn Dương Nghiễm Mậu-(Phí Ích Nghiễm) và nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ  cùng qua đời. Tôi hay gặp anh Bành ở nhà hoạ sĩ Nguyễn Đình Thuần và từng trò chuyện cùng anh vài lần. Nơi đó những ngày cuối tuần là chốn bạn bè văn nghệ họp mặt, nói cười, tán gẫu, đàn hát rất vui. Căn Mobile Home của anh Thuần tuy nhỏ nhưng rất ấm cúng đã lưu rất nhiều dấu chân của những người bạn trong đó anh Bành là người bạn thường trực mỗi tuần.

pic 2 . NDG NLV
Từ trái qua phải : HS Nguyễn Đại Giang, TS Ngô Tịnh Yên, TS Lê Giang Trần, TS Nguyễn Lương Vỵ, Trịnh Thanh Thủy

Tôi gặp anh Vỵ nhiều hơn. Lần đầu tôi gặp anh Vỵ cách đây khoảng 8 năm nhân ngày hoạ sĩ Nguyễn Đại Giang qua Cali chơi. Nhà anh Lê Giang Trần, là nơi gặp gỡ, sau đó mọi người rủ nhau ra cà phê Gypsy uống nước. Quán cơm chay là nơi anh Phan Tấn Hải, và anh Vỵ thường gặp tôi trò chuyện và đàm đạo về Phật Pháp vô cùng thú vị. Tôi và anh Vỵ có cùng một địa phương để nhớ về và nhắc nhở khi tôi còn sống ở Sài Gòn trước 1975.

Có lần tình cờ tôi đọc được những bài thơ của anh trên Da Màu, chúng đã gây ấn tượng trong tôi. Thơ của anh là một cánh rừng xao xác tiếng lá rụng khi âm trầm, lúc xé lòng đau đớn, thỉnh thoảng vang động những vũng tối bập bềnh thống khổ. Đọc anh, tôi đọc được những tâm, những huyết, những âm, những chữ... và tất cả anh hoà trộn vào nhau thành một khối đặc quánh, rất Nguyễn Lương Vỵ. Bạn đọc không cần sống, thở, nghe, nhìn hay cảm xúc. Dường như tác giả đã làm dùm bạn việc này rồi.

nhìn trong thơ thấy đạo

nhìn trong đạo thấy thơ

nhìn trong thơ thấy gạo

nhìn trong gạo thấy mình

có-không thiệt rốt ráo...

 

nhìn trong em thấy mệnh

nhìn trong mệnh thấy đời

nhìn trong đời thấy bệnh

nhìn trong bệnh thấy lời

lời lôi âm rù quếnh...

 

nhìn trong hạt thấy mầm

nhìn trong mầm thấy mộ

nhìn trong mộ thấy âm

nhìn trong âm thấy số

ôi tượng số điếc câm...

(Năm chữ năm câu-NLV)

Hồn âm cứ nhấn

 Xác chữ cứ nhai

 Sai cái không sai

 Đúng cái không đúng

 Sống không để bụng

Chết không mang theo

Huyết âm trong veo…

(Huyết âm 62--NLV)

Huyết âm, âm huyết...Phút lâm bồn của người phụ nữ như đóa sen tinh tuyền khai hoa, nở nhụy trong vũng bùn tối ám. Mẹ và huyết, toàn những huyết, rực đỏ trong đớn đau, đỏ loe tiếng khóc. Càn khôn vũ trụ hoà âm vang rền toàn những ca từ A A A, U U U....Bàn tay tạo hoá hô biến..nặn ra một con giống gói tròn một bọc, ngáp một cái, khóc một tiếng... con đã trào đời.

U U U

A A A

Gió bạt tai

Âm rền máu

Mẹ đẻ đỏ hoe tiếng khóc

Càn khôn tìm về ngay chóc

Vũ trụ đùn ngay một bọc !

Âm âm âm

A A A

U U U

Câm câm câm

Chỉ biết tri âm là đây

Ngáp dài một cái tròn đầy

Xương tàn cốt lụi òa bay

(Hòa Âm Âm Âm Âm...-NLV)

 

Có bài thơ nào miêu tả được phút giây lịch sử đầu đời một con người tuyệt vời được như thế?

Rồi bóng ai như bóng anh đi qua và gục xuống ở bãi cát tuổi thơ xưa, vọng hời những quá khứ cháy vàng tro bụi.

 

Chiều nay

Ngồi nhớ chiều xa

Nhớ lắm ngực chiều Nam Ô Liên Chiểu

Mười lăm năm nghẹn thở

Mười lăm năm nhói tim

Đà Nẵng một thời côi cút bụi đời

Một mình lang thang đầu trần khét nắng

Bến sông Hàn những năm Sáu Mươi

Ta bắt đầu hiểu

Tuổi thơ của mình

Như chiếc lục bình

Trôi đi thất thểu

Trôi đi trôi đi

Ta bắt đầu thấy

Tuổi thơ của mình

Có một chiếc đinh

Rung rinh giữa trán

Rung rinh rung rinh…

 (MỘT THOÁNG ĐÀ NẴNG-NLV)

Anh sống mất cha từ nhỏ nên thanh âm người nữ tràn ngập trong cõi đi về của anh. Thơ anh làm ào ạt, ồn ã, ngùn ngụt, ngún cả một nùi, lạnh mát cả thịt da, chập chùng những tóc dài mù tối.

Lạy em đẹp mãi cho ta mừng

Mần thơ ào ạt như chưa từng

Cái chi cũng đẹp cũng ứng mộng

Cỏ áy hừng đông mượt quá chừng…

Lạy em đẹp mãi cho ta vui

Mần thơ ngùn ngụt ngún một nùi

Chẳng sợ hồn tan hay vía nát

Rất vô tư nhậu với ngậm ngùi…

Lạy em đẹp mãi cho ta sướng

Mần thơ cộng hưởng với âm u

Chẳng sợ đầu non hay cuối vực

Rất hồn nhiên đụng cái mịt mù…


Câu thơ cuối đối với tôi là câu thơ hay nhất "Rất hồn nhiên đụng cái mịt mù…" . Bỗng dưng làm tôi nhớ câu thơ hóm hỉnh của Mai Thảo "Đặt tay vào chỗ không thể đặt... Cười tủm còn thương chỗ đặt nào".

Hay thơ mộng hơn với mối tình đầu

Người con gái mang tên Hoa Vàng

Cho hồn ta như mây lang thang

Bay thấp xuống bên ngoài cửa sổ

Mắt phố nâu dương cầm vang vang

Vang ý biếc tờ thư sương khói

Gởi giùm ta vài hạt nắng gầy

Màu thương cảm trên đường chẳng nói

Đứng một mình câm lặng khoanh tay

Người con gái che nghiêng chiếc nón

Cho hồn ta nghiêng hết biển dâu

Thở rất gấp giữa chiều thu muộn

Lá hiên ngoài đang bay đi đâu?!

Ơi môi người tươi quá sắc hương

Ơi Hoàng Hoa lạ lẫm trên đường

Mắt choáng ngợp nụ cười răng khểnh

Dạ khúc xanh trong những giọt sương…

(Kỷ Niệm-NLV)

Anh sống nhiều, từng trải nhiều, chiêm nghiệm cuộc đời hỉ, nộ, ái, ố, cũng nhiều, để yêu và thở với thơ.  Cõi thơ, ngôn từ của anh tuôn tràn những máu, nước mắt của cuộc đời. Đầy ăm ắp những biệt ly và chập chùng phút chớp tắt của người đi, kẻ ở.

Cuối cùng rồi anh cũng cười khinh khoái một tiếng, dứt áo để trôi chảy ra khỏi cuộc chơi, lên đường quảy gói về miền Phương Ngoại. Anh ra đi để lại một sự nghiệp thơ ca rất lớn với nhiều tập thơ được xuất bản trong nước từ trước 75 và cả ở hải ngoại. Giờ anh mới thật sự yên nghỉ, thôi đau đớn vì bệnh tật để thư thái làm thơ và uống Âm Huyết Hoa hay những Lục Huyết Âm ở một cõi tịnh. Chúc anh ngủ giấc yên bình, thanh thản. Tôi xin thắp nén hương lòng theo gió gởi đến anh nỗi buồn sâu xa nhất.

pic 3Thuy voi Nguyen Luong Vy
Trịnh Thanh Thủy và Nguyễn Lương Vỵ



Thế rồi

anh cũng vào sương

đạp khói

đụng cái mịt mù

để tan loãng

như thơ

TTT

Trịnh Thanh Thủy

 

Tiểu sử

Sinh năm 1952, mất 2021. Quê quán: Quán Rường, Tam Kỳ, Quảng Nam. Tốt nghiệp Cử Nhân Triết Đại Học Vạn Hạnh. Đã có thơ đăng báo (Văn, Khởi Hành, Thời Tập, Văn Chương) từ 1969 tại Sài Gòn.
Đã in:

Âm vang và Sắc Màu

Phương Ý

Hòa Âm Âm Âm Âm…

Huyết Âm

Năm Chữ Năm Câu

Tám câu Lục huyết âm

Nếp gấp thời gian

Tuyển tập thơ 45 năm

Năm chữ ngàn câu

Tiếu ngạo giang hồ

Tuyển tập thơ 50 năm

Âm tiết đỏ thời gian

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.