Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Nguyễn Lương Vy., đụng cái mịt mù

25/02/202114:50:00(Xem: 2345)
pic 1 NguyenLuongVy-01
Chân dung Nguyễn Lương Vỵ (Ảnh Trần Triết)

(Tưởng niệm nhà thơ Nguyễn Lương Vy.)

Có nỗi buồn man mác, có nỗi buồn hay lây, có nỗi buồn chảy máu. Tuy nhiên, nỗi buồn mất mát người thân và bạn bè là nỗi buồn xoáy chiếm tâm hồn tôi sâu thẳm nhất. Liên tiếp quanh tôi những nỗi buồn rụng xuống rồi chồng chất lên nhau chín đỏ thành những tấu khúc biệt ly. Chỉ trong 4 ngày mà hai người bạn tôi từng gặp gỡ trò chuyện đã rủ nhau đi về một nơi nào đó xa thật xa, không bao giờ trở lại. Nhà báo Phí Ích Bành là em ruột của nhà văn Dương Nghiễm Mậu-(Phí Ích Nghiễm) và nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ  cùng qua đời. Tôi hay gặp anh Bành ở nhà hoạ sĩ Nguyễn Đình Thuần và từng trò chuyện cùng anh vài lần. Nơi đó những ngày cuối tuần là chốn bạn bè văn nghệ họp mặt, nói cười, tán gẫu, đàn hát rất vui. Căn Mobile Home của anh Thuần tuy nhỏ nhưng rất ấm cúng đã lưu rất nhiều dấu chân của những người bạn trong đó anh Bành là người bạn thường trực mỗi tuần.

pic 2 . NDG NLV
Từ trái qua phải : HS Nguyễn Đại Giang, TS Ngô Tịnh Yên, TS Lê Giang Trần, TS Nguyễn Lương Vỵ, Trịnh Thanh Thủy

Tôi gặp anh Vỵ nhiều hơn. Lần đầu tôi gặp anh Vỵ cách đây khoảng 8 năm nhân ngày hoạ sĩ Nguyễn Đại Giang qua Cali chơi. Nhà anh Lê Giang Trần, là nơi gặp gỡ, sau đó mọi người rủ nhau ra cà phê Gypsy uống nước. Quán cơm chay là nơi anh Phan Tấn Hải, và anh Vỵ thường gặp tôi trò chuyện và đàm đạo về Phật Pháp vô cùng thú vị. Tôi và anh Vỵ có cùng một địa phương để nhớ về và nhắc nhở khi tôi còn sống ở Sài Gòn trước 1975.

Có lần tình cờ tôi đọc được những bài thơ của anh trên Da Màu, chúng đã gây ấn tượng trong tôi. Thơ của anh là một cánh rừng xao xác tiếng lá rụng khi âm trầm, lúc xé lòng đau đớn, thỉnh thoảng vang động những vũng tối bập bềnh thống khổ. Đọc anh, tôi đọc được những tâm, những huyết, những âm, những chữ... và tất cả anh hoà trộn vào nhau thành một khối đặc quánh, rất Nguyễn Lương Vỵ. Bạn đọc không cần sống, thở, nghe, nhìn hay cảm xúc. Dường như tác giả đã làm dùm bạn việc này rồi.

nhìn trong thơ thấy đạo

nhìn trong đạo thấy thơ

nhìn trong thơ thấy gạo

nhìn trong gạo thấy mình

có-không thiệt rốt ráo...

 

nhìn trong em thấy mệnh

nhìn trong mệnh thấy đời

nhìn trong đời thấy bệnh

nhìn trong bệnh thấy lời

lời lôi âm rù quếnh...

 

nhìn trong hạt thấy mầm

nhìn trong mầm thấy mộ

nhìn trong mộ thấy âm

nhìn trong âm thấy số

ôi tượng số điếc câm...

(Năm chữ năm câu-NLV)

Hồn âm cứ nhấn

 Xác chữ cứ nhai

 Sai cái không sai

 Đúng cái không đúng

 Sống không để bụng

Chết không mang theo

Huyết âm trong veo…

(Huyết âm 62--NLV)

Huyết âm, âm huyết...Phút lâm bồn của người phụ nữ như đóa sen tinh tuyền khai hoa, nở nhụy trong vũng bùn tối ám. Mẹ và huyết, toàn những huyết, rực đỏ trong đớn đau, đỏ loe tiếng khóc. Càn khôn vũ trụ hoà âm vang rền toàn những ca từ A A A, U U U....Bàn tay tạo hoá hô biến..nặn ra một con giống gói tròn một bọc, ngáp một cái, khóc một tiếng... con đã trào đời.

U U U

A A A

Gió bạt tai

Âm rền máu

Mẹ đẻ đỏ hoe tiếng khóc

Càn khôn tìm về ngay chóc

Vũ trụ đùn ngay một bọc !

Âm âm âm

A A A

U U U

Câm câm câm

Chỉ biết tri âm là đây

Ngáp dài một cái tròn đầy

Xương tàn cốt lụi òa bay

(Hòa Âm Âm Âm Âm...-NLV)

 

Có bài thơ nào miêu tả được phút giây lịch sử đầu đời một con người tuyệt vời được như thế?

Rồi bóng ai như bóng anh đi qua và gục xuống ở bãi cát tuổi thơ xưa, vọng hời những quá khứ cháy vàng tro bụi.

 

Chiều nay

Ngồi nhớ chiều xa

Nhớ lắm ngực chiều Nam Ô Liên Chiểu

Mười lăm năm nghẹn thở

Mười lăm năm nhói tim

Đà Nẵng một thời côi cút bụi đời

Một mình lang thang đầu trần khét nắng

Bến sông Hàn những năm Sáu Mươi

Ta bắt đầu hiểu

Tuổi thơ của mình

Như chiếc lục bình

Trôi đi thất thểu

Trôi đi trôi đi

Ta bắt đầu thấy

Tuổi thơ của mình

Có một chiếc đinh

Rung rinh giữa trán

Rung rinh rung rinh…

 (MỘT THOÁNG ĐÀ NẴNG-NLV)

Anh sống mất cha từ nhỏ nên thanh âm người nữ tràn ngập trong cõi đi về của anh. Thơ anh làm ào ạt, ồn ã, ngùn ngụt, ngún cả một nùi, lạnh mát cả thịt da, chập chùng những tóc dài mù tối.

Lạy em đẹp mãi cho ta mừng

Mần thơ ào ạt như chưa từng

Cái chi cũng đẹp cũng ứng mộng

Cỏ áy hừng đông mượt quá chừng…

Lạy em đẹp mãi cho ta vui

Mần thơ ngùn ngụt ngún một nùi

Chẳng sợ hồn tan hay vía nát

Rất vô tư nhậu với ngậm ngùi…

Lạy em đẹp mãi cho ta sướng

Mần thơ cộng hưởng với âm u

Chẳng sợ đầu non hay cuối vực

Rất hồn nhiên đụng cái mịt mù…


Câu thơ cuối đối với tôi là câu thơ hay nhất "Rất hồn nhiên đụng cái mịt mù…" . Bỗng dưng làm tôi nhớ câu thơ hóm hỉnh của Mai Thảo "Đặt tay vào chỗ không thể đặt... Cười tủm còn thương chỗ đặt nào".

Hay thơ mộng hơn với mối tình đầu

Người con gái mang tên Hoa Vàng

Cho hồn ta như mây lang thang

Bay thấp xuống bên ngoài cửa sổ

Mắt phố nâu dương cầm vang vang

Vang ý biếc tờ thư sương khói

Gởi giùm ta vài hạt nắng gầy

Màu thương cảm trên đường chẳng nói

Đứng một mình câm lặng khoanh tay

Người con gái che nghiêng chiếc nón

Cho hồn ta nghiêng hết biển dâu

Thở rất gấp giữa chiều thu muộn

Lá hiên ngoài đang bay đi đâu?!

Ơi môi người tươi quá sắc hương

Ơi Hoàng Hoa lạ lẫm trên đường

Mắt choáng ngợp nụ cười răng khểnh

Dạ khúc xanh trong những giọt sương…

(Kỷ Niệm-NLV)

Anh sống nhiều, từng trải nhiều, chiêm nghiệm cuộc đời hỉ, nộ, ái, ố, cũng nhiều, để yêu và thở với thơ.  Cõi thơ, ngôn từ của anh tuôn tràn những máu, nước mắt của cuộc đời. Đầy ăm ắp những biệt ly và chập chùng phút chớp tắt của người đi, kẻ ở.

Cuối cùng rồi anh cũng cười khinh khoái một tiếng, dứt áo để trôi chảy ra khỏi cuộc chơi, lên đường quảy gói về miền Phương Ngoại. Anh ra đi để lại một sự nghiệp thơ ca rất lớn với nhiều tập thơ được xuất bản trong nước từ trước 75 và cả ở hải ngoại. Giờ anh mới thật sự yên nghỉ, thôi đau đớn vì bệnh tật để thư thái làm thơ và uống Âm Huyết Hoa hay những Lục Huyết Âm ở một cõi tịnh. Chúc anh ngủ giấc yên bình, thanh thản. Tôi xin thắp nén hương lòng theo gió gởi đến anh nỗi buồn sâu xa nhất.

pic 3Thuy voi Nguyen Luong Vy
Trịnh Thanh Thủy và Nguyễn Lương Vỵ



Thế rồi

anh cũng vào sương

đạp khói

đụng cái mịt mù

để tan loãng

như thơ

TTT

Trịnh Thanh Thủy

 

Tiểu sử

Sinh năm 1952, mất 2021. Quê quán: Quán Rường, Tam Kỳ, Quảng Nam. Tốt nghiệp Cử Nhân Triết Đại Học Vạn Hạnh. Đã có thơ đăng báo (Văn, Khởi Hành, Thời Tập, Văn Chương) từ 1969 tại Sài Gòn.
Đã in:

Âm vang và Sắc Màu

Phương Ý

Hòa Âm Âm Âm Âm…

Huyết Âm

Năm Chữ Năm Câu

Tám câu Lục huyết âm

Nếp gấp thời gian

Tuyển tập thơ 45 năm

Năm chữ ngàn câu

Tiếu ngạo giang hồ

Tuyển tập thơ 50 năm

Âm tiết đỏ thời gian

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trải qua gần bảy thập niên, từ cuối thập niên 1950’ đến nay, trong lãnh vực báo chí và văn chương, tên tuổi Trần Dạ Từ, Nhã Ca nổi bật, quen thuộc với giới báo chí, văn nghệ sỹ và độc giả từ miền Nam Việt Nam ở hải ngoại. Với nhiều bài viết về Trần Dạ Từ trên nhiều khía cạnh trong sự nghiệp và sáng tác nên nếu viết cũng là sự lặp lại, vì vậy trong bài viết nầy trích dẫn bạn văn, bạn tù đã sống gần gũi nhau đã viết về ông, nhất là bạn tù.
Ông Tri vung tay hất đổ chén canh, vỡ nhiều mảnh trên nền nhà, tung toé mùng tơi và tôm khô. Ông đưa tay lên lần thứ hai, muốn tát vào mặt con rể. Anh nắm tay ông lại. Lòng tung tóe giận dữ. Ánh mắt giết người làm ông sợ hãi. Rụt tay lại. Quay mặt vào vách. Anh hít một hơi đầy, thở mạnh ra. Xả cơn giận. Đứng lên đi dọn dẹp. Những mảnh chén vỡ làm anh nhớ lại lần đầu tiên khi anh đến nhà thăm Lài, ông Tri đã giận dữ đập vỡ tách trà vì không muốn con gái ông quen biết với người nhìn bề ngoài trông giống du đảng, tóc dài và ăn mặc không tiêu chuẩn.
Măc dầu câu kết của hai bài thơ của họ Thôi và ho Lý đều kết thúc bởi câu “sử nhân sầu” Nhưng cái buồn của họ Thôi, cái buồn của người hiểu thế sự. Cái buồn của họ Lý là cái buồn tích cực nhập thế. Họ Thôi thì nhớ về quê hương còn họ Lý thì nhớ thủ đô Tràng An. Như vậy xem ra mối sâu của Thôi Hiệu và của Lý Bạch không giống nhau. Hai bài thơ có những ưu điểm riêng, bổ túc cho nhau.
Bài thơ Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường vào đầu thế kỷ XIX của khuyết danh chỉ đề cập tổng quát, được đề cập nhiều (Sau nầy có bài thơ của Nguyễn Bính nhưng không có gọi tên phố phường). Tác phẩm Hà Nội 36 Phố Phường của nhà văn Thạch Lam (1910-1942) ấn hành năm 1943 được phổ biến rộng rãi, được mọi người biết đến nếp sống, sinh hoạt… của Hà Nội xa xưa.
Nhà thơ Đinh Hùng sinh ngày 3/7/1920, làng Phượng Dực tỉnh Hà Đông. Ông là con út trong gia đình gồm sáu anh chị em: anh cả là Đinh Lân, các chị là Loan, Yến, Hồng, Oanh. Chị Đinh Thục Oanh lập gia đình với nhà thơ Vũ Hoàng Chương (1915-1976). Đinh Hùng theo bậc tiểu học tại trường Sinh Từ, rồi bậc trung học tại trường trường Bưởi, Hà Nội. Và sau khi đậu bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Diplôme d’Étude Primaire Supérieurs Franco-Indigène) thường gọi là bằng Thành Chung. Ông được học bổng tiếp tục đèn sách để thi Tú Tài bản xứ thì “Thần Ái tình đã hiện đến cùng một lúc với sự thành công đầy hứa hẹn” (theo lời kể của ông anh rể Vũ Hoàng Chương), khiến ông bỏ ngang để đi viết văn, làm thơ. Năm 1943, ông xuất bản tập văn xuôi Đám Ma Tôi nhưng sau đó nổi tiếng với bài thơ Kỳ Nữ. Năm 1944, nhà thơ Vũ Hoàng Chương cưới bà Thục Oanh đưa về Nam Định sinh sống, ông ở lại Hà Nội và cho ra đời giai phẩm Dạ Đài, và năm này, ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thanh về Thái Bình dạy học.
Cha anh, ông Thụ, là một người trung bình về mọi phương diện. Ưa thích quyền lực nhưng không thỏa mãn. Quyền lực mà ông có nhiều nhất là đối với vợ con. Đứa con trai duy nhất, “Em à, số vợ chồng mình thật xui. Có một đứa con mà nó lại sống ở trên mây.” _”Còn hơn nó chết à?” Thú vui lựa chọn của ông Thụ là tập bắn súng. Súng trường, súng lục, súng nào ông bắn cũng giỏi. Đã đoạt một số giải thưởng bắn thi. Và dĩ nhiên, ông muốn truyền tài năng này cho con trai. Năm 17 tuổi anh đã đoạt giải quán quân về tầm bắn xa 200 mét. Khi anh đeo dây huy chương trên cổ, tay cầm cái cúp giải thưởng, cha anh đã ôm anh thật chặt, Hơi nóng ấm áp chuyền qua làn áo vải. Ông đã tìm thấy ông và anh đã tìm thấy cha. Tính tình cha con anh có nhiều chuyện khác nhau, từ sở thích đến suy nghĩ. Khi còn nhỏ, anh không thích ăn thịt. Ông ăn thịt bò bíp-tết hai ngày mỗi tuần. Mỗi lần ăn, ông cắt thịt ra từng mảnh nhỏ, bắt anh hả miệng và đút vào. _”Nhai đi.” Cùng một cách ra lệnh, _”Nghĩ đi”, _”Làm đi”, _”Thở đi” _Số
Mẹ tôi, sinh nhật nào cũng bốn cây bạch lạp thắp sáng, năm nào bà cũng bốn mươi tuổi, không già hơn. Sinh nhật năm nay cũng vậy. Đàn cháu hát hăm hở Happy Birthday mừng bà nội. Mừng điều gì, tôi không biết. Sống lâu? Bà gần như không bao giờ chết. Xinh đẹp? Bà có bao giờ thay đổi đâu. Khỏe mạnh? Bà sẽ không bao giờ bệnh. Có lẽ con gái tôi biết được điều gì tôi không biết. “Chúc bà nội năm nay có tình yêu.” Cả đám con cháu cười vang kèm theo tiếng vỗ tay. Mẹ cười âu yếm. Trong căn phòng khách này, tôi là người già nhất và là người lạc hậu nhất.
LTS: Nhà văn Dương Nghiễm Mậu qua đời lúc 21 giờ 35 phút tối, giờ VN, ngày 2 tháng 8 năm 2016 (nhằm ngày 30 tháng 6 năm Bính Thân) tại Sài Gòn, hưởng thọ 81 tuổi. Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh ngày 19 tháng 11 năm 1936 tại quê nội làng Mậu Hòa (quê ngoại làng Dương Liễu), huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Lập gia đình năm 1971, với Hồ Thị Ngọc Trang, giảng viên Anh ngữ. Sau 30/4/1975 bị bắt giam. 1977 đươc tạm tha. Từ 1977, học nghề sơn mài và sống bằng nghề này tại Sài Gòn. Từ 12 đến 18 tuổi sống ở Hà Nội. Học tiểu học ở trường Hàng Than, trung học, Chu Văn An, viết đoản văn, tùy bút cho báo trường và các báo có phụ trang văn nghệ học sinh. 1954 di cư vào Nam với gia đình, năm đầu ở Huế, năm sau ra Nha Trang, hè 1957 vào sống hẳn Sài Gòn. Từ 1957 trở đi Ông viết nhiều: tạp văn, tùy bút, đoản văn, truyện ngắn, truyện dài. Nhân ngày giỗ thứ tám, Việt Báo xin trích đăng lại nhà văn Dương Nghiễm Mậu từ tập “Tự Truyện Nguyễn Du”.
Tôi không khỏi bâng khuâng được tin Chị Võ Phiến, tên thật là Viễn Phố, phu nhân nhà văn Võ Phiến (1925-2015), đã qua đời ngày 24 tháng 7, 2024, hưởng thọ 94 tuổi. Trong số các bạn đời của các bạn văn của tôi, chị là người phối ngẫu tôi có dịp gần gũi hơn cả, từ khi anh còn sống và cả sau khi anh đã qua đời...
Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Kafka đã viết hàng trăm bức thư, từ những bức thư tình cảm động và đầy đau thương, cho đến những lá thư gửi cho bạn bè để chia sẻ về những tác động diệu kỳ của chữ nghĩa đối với tâm hồn. Tuy nhiên, không có bức thư nào có thể so sánh với bức thư dài 47 trang mà ông viết cho cha mình, Hermann Kafka, vào tháng 11/1919. Bức thư này gần như là tự truyện duy nhất của Franz Kafka, được dịch bởi Ernst Kaiser và Eithne Wilkins và được xuất bản vào năm 1966 với tựa đề “Letter to His Father” (Thư Gửi Cha).