Hôm nay,  

Hoa Trong Rác, Rác Trong Hoa

7/17/202000:00:00(View: 3456)

HOA TRONG RAC RAC TRONG HOA 01

Hình bìa sách “Novice To Master.”

                                                                                                
“Không có gì là rác!”

           
Đó là bài học đầu tiên đại-sư Zuigan Goto dạy cho người đệ tử ông vừa thâu nhận, sau này chính là thiền-sư Soko Morinaga,  nổi tiếng của xứ Phù Tang.
           
“ There Is No Trask!” (Không có gì là rác!) là một, trong những lời thiền-sư Soko Morinaga tự thuật, gom chung trong tác phẩm “Novice To Master” đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ.
               
Sống sót trở về sau chiến tranh tàn khốc giữa thập niên bốn mươi, Soko Morinaga tìm về căn nhà cũ, trực diện với những khó khăn và mất mát tận cùng của đời người. Cha mẹ không còn, anh chị em phân tán, nhà cửa, tiền bạc bị tịch thu…
           
Soko Morinaga cố ngoi lên bằng ý chí trở lại học đường, nhưng đành chào thua cuộc vật lộn cam go đó khi cái bao tử trống rỗng thường xuyên lên tiếng kêu khóc!
           
Giữa quạnh hiu đổ nát cả thân và tâm, một sự mầu nhiệm kỳ diệu nào đã dẫn bước chân vô định tới trước cửa chùa Daishuin ở Tokyo.
           
Ngước nhìn mái chùa rêu phong, lưỡng lự đôi ba phút rồi Soko mạnh dạn bấm chuông. Người mở cửa chính là đại-sư Zuigan Goto.
           
Soko ngỏ lời xin được Ngài thâu nhận làm đệ tử.
           
Đại-sư nhìn từ đầu đến chân, người thanh niên tóc tai bờm sờm, áo quần nhầu nát, rồi chỉ hỏi một câu duy nhất:

-Ngươi tin ta chứ? Nếu không tin ta thì có ở đây bao lâu cũng chẳng học được  gì, chỉ phí công ta thôi.
           
Tất nhiên, Soko hấp tấp trả lời:
           
-Con xin hết lòng tin tưởng Sư Phụ.
           
Đại-sư mở rộng cửa, lạnh lùng truyền:
           
-Theo ta.
           
Soko líu ríu đi theo. Tới góc sân, đại-sư chỉ cây chổi tre và ra lệnh:
           
-Quét dọn vườn!
           
Trước khi cầm chổi, Soko quỳ xuống bái tạ đại-sư đã dễ dàng thâu nhận mình.
           
Công việc quét vườn thì có chi là khó. Soko hăng hái quét, quét, và quét, không bao lâu đã gom được đống rác cao nghệu đầy đất, sỏi, đá vụn và lá khô.

Dừng chổi, Soko đến trước đại-sư, nãy giờ vẫn đứng ở cuối sân quan sát. Soko lễ phép hỏi:
           
-Bạch thầy, con phải bỏ đống rác này đi đâu ạ?
          
Bất ngờ, đại-sư quát lên:
           
-Rác? Mi nói chi? Không có gì là rác cả! Đồ ngu!
           
Soko ngẩn ngơ nhìn đống chiến lợi phẩm vừa gom được, không hiểu đây không là rác thì là gì?
           
Còn đang lúng túng thì đại-sư lại sai:
           
-Vào nhà kho kia, lấy cái bao nhựa lớn ra đây.
           
Khi Soko tìm được bao nhựa mang ra thì thấy đại-sư đang dùng hai tay gạt đám lá khô sang một bên và bảo:
           
-Mở rộng miệng bao ra.
           
Soko tuân lời, lẳng lặng theo dõi thầy mình quơ từng ôm lá, bỏ vào bao, thỉnh thoảng lại dậm dậm cho lá xẹp xuống. Cuối cùng, những lá khô trong đống rác đã được nhồi vào bao, cột lại. Soko lại nghe lệnh truyền:
           
-Đem bao lá này vào nhà kho, để dành mùa đông đun nước tắm.
           
Vừa vác bao lá trên vai, Soko vừa nghĩ, còn đống đất, đá, không phải rác thì sẽ dọn đi đâu?
           
Ấy thế mà, khi ở nhà kho ra, Soko thấy đại-sư đang lượm những viên sỏi và đá vụn, để ra một bên. Trước vẻ ngẩn ngơ của Soko, ông vừa nói, vừa sai:
           
-Có thấy hàng hiên ngay dưới ống máng sối kia không? Có thấy những chỗ bị nước mưa từ máng sối xoáy lồi lõm không? Đem những sỏi và đá vụn này ra, trám vào những chỗ đó.
           
Soko vừa làm, vừa thán phục thầy mình vì quả thật, sau khi trám, không những chỗ lồi lõm bằng phẳng mà còn đẹp hẳn lên.
           
Bây giờ đống rác (theo Soko) chỉ còn lại đất và rêu. Lần này thì chắc chắn phải hốt, đổ đi rồi. Nhưng kinh ngạc biết bao, khi Soko quay lại sân, thấy Đại Sư  đang thong thả nhặt từng miếng đất, từng tảng rêu lên tay, rồi chậm rãi nhìn quanh, tìm những khe tường nứt, những chỗ lồi lõm trên mặt đất, từ tốn trám vào.
           
Bây giờ thì đống rác không còn đó, nhưng cũng không phải là đồ phế thải vô dụng, quăng đi đâu. Mỗi loại rác đều đã được tận dụng để làm đẹp thêm những gì chưa-phải-là-rác.         
           
Chỉ với công việc tầm thường trong ngày đầu nhập viện, Soko đã được thầy mình chỉ dạy để thực hành chân lý căn bản của Đạo Phật mà Soko không ngờ. Chính chân lý đó, khoảnh khắc đó, đã là đạo lộ dẫn bước chân một kẻ cùng đường, trở thành vị Thiền sư, ảnh hưởng đời sống tâm linh của bao môn đồ khắp năm châu bốn biển.
           
Dọn vườn, gom rác, để được học từ đống rác: “Từ nguyên thủy, dù là người hay vật đều không gì là rác cả!”
           
Có phải lời dạy này khai triển ấn chứng từ kim khẩu Đức Thích Ca Mâu Ni khi Ngài vừa bừng giác ngộ, nhận ra mọi chúng sanh đều có Phật Tánh bình đẳng như nhau, chỉ do màn vô minh che phủ không đồng mà căn cơ sai khác, nhưng bản chất đích thực thì: “Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành”.
           
Đức Phật thường giảng pháp trong thế ngồi liên-hoa-tọa (padmasana) với hai bàn tay mở rộng, biểu lộ sự thanh cao và không có chi dấu diếm. Dường như không có tôn giáo nào mà vị giáo chủ từ bi khuyến khích và xác quyết với môn đồ rằng “Pháp ta như thế… như thế… Ai hành trì đúng thì sẽ đạt thành quả như ta, không khác.”
           
Là phàm phu - nghĩa là còn trên con đường từ Phật Sẽ Thành, tới Phật Đã Thành - mấy ai dám tự tin không phạm lỗi lầm? Mỗi sớm mai thức dậy, chỉ vừa bước ra khỏi giường là đã có thể phạm lỗi. Từ những lỗi tinh vi do ý chợt vô tình vọng khởi, tới những lỗi không tránh được, do bao kiết sử còn vương mang.

Cha lành biết thế, nên Ngài đã trấn an các con: “Có hai hạng người đáng quý. Hạng thứ nhất là chưa từng phạm lỗi. Hạng thứ hai là biết có lỗi, mà thực tâm sám hối để chuyển hóa”.

HOA TRONG RAC RAC TRONG HOA 02

Hình minh họa hoa.


Soko đã may mắn gặp được minh sư, nên ngay phút đầu tiên đã được thầy  dạy bài học chuyển hóa, thực hành ngay nơi việc làm đơn giản mà cảm nhận thân này đáng quý, thân này là chiếc bè đưa ta qua sông, thân này không phải rác, dù gặp nghịch cảnh đau thương nào…

Hoa trong rác
Rác trong hoa
Không gì là rác,
Không gì hoa!
Rác mà chuyển hóa, là hoa thắm
Hoa tàn với rác, có đâu xa!
Ngũ uẩn giai không, vô sở trụ
Duyên sinh thành hoại,
Tự tâm ta!

 
Huệ Trân
(Tào-Khê tịnh thất – quét dọn tiểu viên)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tháng đầu tiên của năm 2025 đang trôi qua. Nhiều câu hỏi đang hiện ra trên các trang báo. Thế giới có thể sẽ bình an hơn? Dân tộc Palestine có thể sẽ được phép cho lập quốc? Ukraine có thể đã tới gần ngày ngưng bắn? Biển Đông sẽ ngưng sóng gió? Cuộc chiến Đài Loan sẽ thoát được? Nam Hàn và Bắc Hàn sẽ làm hòa với nhau? Chúng ta không mong đợi phép lạ hiện ra cho thế giới này, chỉ mong đợi năm 2025 đỡ bất an hơn. Nếu không chấp nhận những dị biệt của nhau, để cởi mở với những tư tưởng đa nguyên hơn, thế giới này sẽ cứ mãi bất an. Nỗi lo lớn nhất của nhân loại là chiến tranh. Lời chúc cần thiết nhất cho nhân loại hiển nhiên phải là hòa bình, bởi vì trong mấy năm qua, tuy chưa nổ trái bom hạt nhân nào, mà hầu hết các nơi ở Gaza và Ukraine đã trở thành gạch vụn. Đó là chưa kể tới thiệt hại về nhân mạng, khi một người chết đi, là một gia đình đau đớn, và cả một cộng đồng lay chuyển. Đôi khi chúng ta mong chờ phép lạ để thế giới hòa bình.
Một tin tức nóng hổi trong giới văn học hiện đại thế kỷ 20: Virginia Woolf, nữ tiểu thuyết gia và nhà viết tiểu luận (essayist) nổi tiếng, hóa ra còn sở hữu một tài năng khác: làm thơ. Bí mật này được hé lộ nhờ những tài liệu mới được phát hiện bởi Sophie Oliver, giảng viên về chủ nghĩa hiện đại tại Đại học Liverpool.
Ông đồ Nhuận Tâm cho biết, Theo lời mời của Thượng Tọa Thích Minh Tâm, trong ngày Mùng Một Tết Ất Tỵ (29 Tháng Giêng Dương Lịch), ông sẽ có mặt tại Tịnh Xá Giác Lý (11262 Lampson Ave, Garden Grove, CA 92840) viết tặng chữ cho bà con du Xuân tại đây.
Phát thanh viên Nhã Lan của kênh truyền hình Hồn Việt TV (Orange County, CA) nói chuyện với nhà văn / nhà thơ Trịnh Y Thư về văn chương và các điều khác...
Tác phẩm Drei Kameraden (Three Comrades) năm 1936 của văn hào Đức, Erich Maria Remarque (1898-1970) Tâm Nguyễn dịch với tựa đề Chiến Hữu, nhà xuất bản Kinh Thi ấn hành năm 1972, gồm 28 chương dày bảy trăm trang. Đệ Nhất Thế Chiến, Remarque ở tuổi 19, bị động viên vào Quân Đội Hoàng Gia Đức, thuyên chuyển về Mặt Trận Miền Tây (The Western Front), bị thương vì các mảnh đạn bắn vào chân trái, tay phải và vào cổ, nên được tản thương về bệnh viện, điều trị cho đến khi chiến tranh kết thúc rồi được giải ngũ khỏi Quân Đội Đức. Sau khi chiến tranh chấm dứt Remarque bị ám ảnh bởi các cảnh tàn phá của chiến tranh, thân phận con người, người lính trong và sau giai đoạn bi thương của lịch sử.
Nguyễn Du là tác giả của “Truyện Kiều” và nhà văn người Đức Johann Wolfgang von Goethe là tác giả kịch thơ “Faust”. Nguyễn Du được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào" và được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới” vào năm 2013 cùng 107 danh nhân khác. Nếu người Việt tự hào về Nguyễn Du thì người Đức cũng rất tự hào về nhà văn lớn của họ là Goethe. Theo Viện Nghiên cứu xã hội và phân tích thống kê Đức (Forsa), Geothe được xếp đứng hàng đầu trong danh sách „Những người Đức vĩ đại nhất mọi thời đại“ [1]. Sau đó mới đến vị thủ tướng đầu tiên của Cộng Hòa Liên Bang Đức là Konrad Adenauer (1876-1967) đứng hạng nhì và đứng hạng thứ ba lại là nhà khoa học gia Albert Einstein (1879-1955), cha đẻ của Thuyết tương đối.
Với tài năng hội họa, văn, thơ, và nhất là tấm lòng và ý chí bền bỉ với văn học nghệ thuật, Khánh Trường đã chinh phục một số lượng độc giả và giới thưởng ngoạn nghệ thuật lớn, từ hải ngoại về đến trong nước, từ nhiều thập niên qua, và có lẽ Ông sẽ mãi được nhớ đến trong văn sử Việt là người khai phóng một nền văn học hậu chiến ở hải ngoại và trong nước qua tờ báo văn học Hợp Lưu. Sau ba cơn tai biến Ông đã phải mang nhiều bệnh tật, nhưng sự ra đi của ông vào cuối năm 29 tháng 12, 2024 vừa qua vẫn gây bàng hoàng đối với những người thân yêu và mến mộ ông. Nỗi niềm thương tiếc này được biểu hiện bằng đôi lời chia biệt với ông và gia đình từ khắp nơi. Việt Báo trích đăng lại.
Như anh có lần tâm sự, thủa 13, anh đã bỏ quê nhà Quảng Nam, lên Đà Lạt, sống đời lang bạt, ăn bờ ngủ bụi, thậm chí “biết tình yêu gái điếm” dù còn non choẹt. Rồi anh xuống Sài Gòn, không muốn tiếp tục làm du đãng, anh đăng lính, dù chưa đủ tuổi. Có sao đâu, chiến tranh đang lên cao điểm mà, quân đội cần lính, nhất là lính Dù, những người lỳ lợm, can đảm, tự nguyện. Những năm chiến trận, đúng châm ngôn “Nhẩy Dù cố gắng”, anh sống trọn với đồng đội, với màu cờ sắc áo. Bị thương nhiều lần, anh buộc phải giải ngũ. Đời sống dân sự chưa được bao lâu thì “xẩy đàn tan nghé”, ngày 30 Tháng Tư 75, anh bị “bên thắng cuộc” liệt vào hàng ngũ “bên thua cuộc”. Vì là cấp hạ sĩ quan, anh không chịu chung số phận như hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức, bị đầy đọa nhiều năm tháng trong các trại tù mà chế độ mới gọi bằng mỹ từ “cải tạo”. Nhưng anh vẫn bị nghi kỵ, bị phân biệt đối xử ngay chính trên quê hương mình.
Chúng tôi quen nhau bắt đầu bằng một… thùng sách...
Giữa mình và Khánh Trường có chút tình văn nghệ tuy thỉnh thoảng mới gặp nhau. Nay Khánh Trường vừa ra đi xin đăng lại một bài viết về Trăng Thiền cách đây cũng đã mươi năm nhân Khánh Trường triển lãm một loạt tranh mới chủ đề là Đáo Bỉ Ngạn và có gởi cho Nguyễn hình chụp một số bức để đưa lên Phố Văn. Xin mời bạn đọc theo dõi bài viết.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.