Hôm nay,  

Hoa Trong Rác, Rác Trong Hoa

17/07/202000:00:00(Xem: 2691)

HOA TRONG RAC RAC TRONG HOA 01

Hình bìa sách “Novice To Master.”

                                                                                                
“Không có gì là rác!”

           
Đó là bài học đầu tiên đại-sư Zuigan Goto dạy cho người đệ tử ông vừa thâu nhận, sau này chính là thiền-sư Soko Morinaga,  nổi tiếng của xứ Phù Tang.
           
“ There Is No Trask!” (Không có gì là rác!) là một, trong những lời thiền-sư Soko Morinaga tự thuật, gom chung trong tác phẩm “Novice To Master” đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ.
               
Sống sót trở về sau chiến tranh tàn khốc giữa thập niên bốn mươi, Soko Morinaga tìm về căn nhà cũ, trực diện với những khó khăn và mất mát tận cùng của đời người. Cha mẹ không còn, anh chị em phân tán, nhà cửa, tiền bạc bị tịch thu…
           
Soko Morinaga cố ngoi lên bằng ý chí trở lại học đường, nhưng đành chào thua cuộc vật lộn cam go đó khi cái bao tử trống rỗng thường xuyên lên tiếng kêu khóc!
           
Giữa quạnh hiu đổ nát cả thân và tâm, một sự mầu nhiệm kỳ diệu nào đã dẫn bước chân vô định tới trước cửa chùa Daishuin ở Tokyo.
           
Ngước nhìn mái chùa rêu phong, lưỡng lự đôi ba phút rồi Soko mạnh dạn bấm chuông. Người mở cửa chính là đại-sư Zuigan Goto.
           
Soko ngỏ lời xin được Ngài thâu nhận làm đệ tử.
           
Đại-sư nhìn từ đầu đến chân, người thanh niên tóc tai bờm sờm, áo quần nhầu nát, rồi chỉ hỏi một câu duy nhất:

-Ngươi tin ta chứ? Nếu không tin ta thì có ở đây bao lâu cũng chẳng học được  gì, chỉ phí công ta thôi.
           
Tất nhiên, Soko hấp tấp trả lời:
           
-Con xin hết lòng tin tưởng Sư Phụ.
           
Đại-sư mở rộng cửa, lạnh lùng truyền:
           
-Theo ta.
           
Soko líu ríu đi theo. Tới góc sân, đại-sư chỉ cây chổi tre và ra lệnh:
           
-Quét dọn vườn!
           
Trước khi cầm chổi, Soko quỳ xuống bái tạ đại-sư đã dễ dàng thâu nhận mình.
           
Công việc quét vườn thì có chi là khó. Soko hăng hái quét, quét, và quét, không bao lâu đã gom được đống rác cao nghệu đầy đất, sỏi, đá vụn và lá khô.

Dừng chổi, Soko đến trước đại-sư, nãy giờ vẫn đứng ở cuối sân quan sát. Soko lễ phép hỏi:
           
-Bạch thầy, con phải bỏ đống rác này đi đâu ạ?
          
Bất ngờ, đại-sư quát lên:
           
-Rác? Mi nói chi? Không có gì là rác cả! Đồ ngu!
           
Soko ngẩn ngơ nhìn đống chiến lợi phẩm vừa gom được, không hiểu đây không là rác thì là gì?
           
Còn đang lúng túng thì đại-sư lại sai:
           
-Vào nhà kho kia, lấy cái bao nhựa lớn ra đây.
           
Khi Soko tìm được bao nhựa mang ra thì thấy đại-sư đang dùng hai tay gạt đám lá khô sang một bên và bảo:
           
-Mở rộng miệng bao ra.
           
Soko tuân lời, lẳng lặng theo dõi thầy mình quơ từng ôm lá, bỏ vào bao, thỉnh thoảng lại dậm dậm cho lá xẹp xuống. Cuối cùng, những lá khô trong đống rác đã được nhồi vào bao, cột lại. Soko lại nghe lệnh truyền:
           
-Đem bao lá này vào nhà kho, để dành mùa đông đun nước tắm.
           
Vừa vác bao lá trên vai, Soko vừa nghĩ, còn đống đất, đá, không phải rác thì sẽ dọn đi đâu?
           
Ấy thế mà, khi ở nhà kho ra, Soko thấy đại-sư đang lượm những viên sỏi và đá vụn, để ra một bên. Trước vẻ ngẩn ngơ của Soko, ông vừa nói, vừa sai:
           
-Có thấy hàng hiên ngay dưới ống máng sối kia không? Có thấy những chỗ bị nước mưa từ máng sối xoáy lồi lõm không? Đem những sỏi và đá vụn này ra, trám vào những chỗ đó.
           
Soko vừa làm, vừa thán phục thầy mình vì quả thật, sau khi trám, không những chỗ lồi lõm bằng phẳng mà còn đẹp hẳn lên.
           
Bây giờ đống rác (theo Soko) chỉ còn lại đất và rêu. Lần này thì chắc chắn phải hốt, đổ đi rồi. Nhưng kinh ngạc biết bao, khi Soko quay lại sân, thấy Đại Sư  đang thong thả nhặt từng miếng đất, từng tảng rêu lên tay, rồi chậm rãi nhìn quanh, tìm những khe tường nứt, những chỗ lồi lõm trên mặt đất, từ tốn trám vào.
           
Bây giờ thì đống rác không còn đó, nhưng cũng không phải là đồ phế thải vô dụng, quăng đi đâu. Mỗi loại rác đều đã được tận dụng để làm đẹp thêm những gì chưa-phải-là-rác.         
           
Chỉ với công việc tầm thường trong ngày đầu nhập viện, Soko đã được thầy mình chỉ dạy để thực hành chân lý căn bản của Đạo Phật mà Soko không ngờ. Chính chân lý đó, khoảnh khắc đó, đã là đạo lộ dẫn bước chân một kẻ cùng đường, trở thành vị Thiền sư, ảnh hưởng đời sống tâm linh của bao môn đồ khắp năm châu bốn biển.
           
Dọn vườn, gom rác, để được học từ đống rác: “Từ nguyên thủy, dù là người hay vật đều không gì là rác cả!”
           
Có phải lời dạy này khai triển ấn chứng từ kim khẩu Đức Thích Ca Mâu Ni khi Ngài vừa bừng giác ngộ, nhận ra mọi chúng sanh đều có Phật Tánh bình đẳng như nhau, chỉ do màn vô minh che phủ không đồng mà căn cơ sai khác, nhưng bản chất đích thực thì: “Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành”.
           
Đức Phật thường giảng pháp trong thế ngồi liên-hoa-tọa (padmasana) với hai bàn tay mở rộng, biểu lộ sự thanh cao và không có chi dấu diếm. Dường như không có tôn giáo nào mà vị giáo chủ từ bi khuyến khích và xác quyết với môn đồ rằng “Pháp ta như thế… như thế… Ai hành trì đúng thì sẽ đạt thành quả như ta, không khác.”
           
Là phàm phu - nghĩa là còn trên con đường từ Phật Sẽ Thành, tới Phật Đã Thành - mấy ai dám tự tin không phạm lỗi lầm? Mỗi sớm mai thức dậy, chỉ vừa bước ra khỏi giường là đã có thể phạm lỗi. Từ những lỗi tinh vi do ý chợt vô tình vọng khởi, tới những lỗi không tránh được, do bao kiết sử còn vương mang.

Cha lành biết thế, nên Ngài đã trấn an các con: “Có hai hạng người đáng quý. Hạng thứ nhất là chưa từng phạm lỗi. Hạng thứ hai là biết có lỗi, mà thực tâm sám hối để chuyển hóa”.

HOA TRONG RAC RAC TRONG HOA 02

Hình minh họa hoa.


Soko đã may mắn gặp được minh sư, nên ngay phút đầu tiên đã được thầy  dạy bài học chuyển hóa, thực hành ngay nơi việc làm đơn giản mà cảm nhận thân này đáng quý, thân này là chiếc bè đưa ta qua sông, thân này không phải rác, dù gặp nghịch cảnh đau thương nào…

Hoa trong rác
Rác trong hoa
Không gì là rác,
Không gì hoa!
Rác mà chuyển hóa, là hoa thắm
Hoa tàn với rác, có đâu xa!
Ngũ uẩn giai không, vô sở trụ
Duyên sinh thành hoại,
Tự tâm ta!

 
Huệ Trân
(Tào-Khê tịnh thất – quét dọn tiểu viên)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà hiền triết người Ấn Độ Jiddu Krishnamurti (1895-1986) qua đời vào ngày 17 tháng 2 năm 1986 tại Ojai Valley, Quận Ventura, Nam California, Hoa Kỳ, nơi ông đã chọn làm quê hương thứ hai từ năm 1922 cho đến khi ông mất, dù ông không ở đó thường trực. Tính đến tháng 2 năm nay, 2024 đã tròn 38 năm kể từ ngày ông lìa bỏ trần gian. Krishnamurti là một trong những nhà hiền triết có sức ảnh hưởng rất lớn đối với nhân loại trong thế kỷ 20. Cuốn “The First and Last Freedom” của ông được Giáo sư Phạm Công Thiện dịch sang tiếng Việt từ trước năm 1975 ở Sài Gòn với tựa đề “Tự Do Đầu Tiên và Cuối Cùng” là một trong những cuốn sách tôi rất yêu thích đọc từ thời còn niên thiếu. Nhân tìm đọc lại một số bài giảng và bài viết của Krishnamurti, tôi tình cờ gặp được bài thơ “Song of the Beloved” (Bài Ca Về Người Yêu), nhưng không thấy ghi ông đã làm từ bao giờ. Có lẽ bài ca này ông làm vào những lúc về nghỉ ngơi tịnh dưỡng ở Ojai, vì bài đó nói lên lòng yêu thích thâm thiết của ông đối với thiên nhiên,
Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 với tác phẩm Vòng Đai Xanh. Sau này ông có thêm hai giải thưởng: 1) Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và 2) Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017 với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch...
Người viết chơi với Phạm Thiên Thư từ những năm học trung học đệ nhất cấp khoảng 58-59. Thư đến nhà tôi ở ấp Cả Trắc, khu Ông Tạ và chúng tôi thường kéo nhau ra quán cà phê vợt ở đầu ngõ đi vào ấp. Trong những lần uống cà phê, Thư nói sôi nổi về việc lập học hội Hồ Quý Ly, để thực hiện việc nghiên cứu, viết văn, làm thơ. Mục đích là tiến tới làm một tập san văn nghệ...
Chúng tôi vẫn biết Hoàng Cầm là người cùng quê và là bạn với một ông anh họ từ thời kháng chiến chống Pháp, nhưng không ngờ nhà thơ lại theo xe ra đón chúng tôi ở phi trường Nội Bài. Hôm đó Hoàng Cầm mặc một cái màu đỏ xậm trông rất hào hoa dù Hà Nội năm đó vẫn còn rất nghèo...
Mở đầu cho sê-ri bài viết về phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm thập niên 50 tại Bắc Việt Nam, là một tư liệu hiếm quý về/của nhà thơ Phùng Quán. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Nước Mỹ thế kỷ XX cống hiến cho nhân loại sự phong phú và đa dạng của các trào lưu, chủ đề và tiếng nói trong văn học. Một số tác giả và tác phẩm kinh điển đã xuất hiện trong thời kỳ này, góp phần phát triển truyền thống văn học có từ những thế kỷ trước. Riêng trong lĩnh vực tiểu thuyết, văn học hiện đại, thịnh hành vào đầu thế kỷ XX ở Châu Âu với kỹ thuật “dòng ý thức” trong tiểu thuyết của James Joyce và Virginia Woolf, lan rộng sang Mỹ, tìm cách tách rời các hình thức truyền thống thế kỷ XIX để cách tân và hình thành một dòng văn học mới với phong cách độc đáo, táo bạo và mở ra những cánh cửa thú vị bất ngờ cho người đọc đi vào ngôi nhà nghệ thuật. Kỷ nguyên văn học hiện đại phương Tây bắt đầu từ hai thập kỷ đầu của thế kỷ XX và, không thể nghi ngờ, Mỹ là quốc gia có những đóng góp to tát. Các tiểu thuyết gia lớn trong thời kỳ này, ta có thể nhắc đến F. Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway và William Faulkner.
Bước đi như vậy rõ ràng là không cần lưu dấu; nhưng chính là bước đi siêu tuyệt của bậc đại nhân, đại sĩ: không dấu tích mà lại tràn đầy công đức, lợi ích cho dân tộc, đạo pháp và nhân loại nhiều thế kỷ sau.
Một chương trong tiểu thuyết Đường Về Thủy Phủ của nhà văn Trịnh Y Thư...
Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ lớn của nước Việt trong thế kỷ 20. Ộng có địa vi cao cả trên thì văn đàn miền Nam và là người duy nhất được tôn xưng là thi bá...
Những phân đoạn này thuộc vào phần có tựa là “Dưới những gốc nho biển,” nằm trong tiểu thuyết “Đường về thủy phủ.” Tuy nhiên, cũng như phân đoạn [1-3] tôi đã nói ở trên, nó vẫn mang đủ những yếu tố của một truyện ngắn. Hẳn nhiên người đọc sẽ thấy rõ đây là dụng ý của tác giả. Và chỉ đến lúc đọc xong trọn “Đường về thủy phủ,” thì mới có một suy nghiệm tổng thể, và có thể bật ra cách ráp nối những mảnh hình, những sự kiện, và lóe sáng một sợi dây xuyên suốt tác phẩm qua bản chất của các nhân vật, để từ đó hiểu rõ hơn chủ đề của nhà văn Trịnh Y Thư...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.