Hôm nay,  

Mặc Đỗ và Sài Gòn Của Tôi

4/24/202000:00:00(View: 4330)

Mặc Đỗ (1915 – 2015)

MĂC ĐỖ
Nhà văn Mặc Đỗ

Mặc Đỗ tên thật Đỗ Quang Bình, sinh năm 1917 tại Hà Nội, di cư vào Nam năm 1954. Nơi đây ông sáng lập nhật báo Tự Do và nhóm Quan Điểm. Ông cũng là một trong những nhà văn có ảnh hưởng quan trọng với nền văn chương Miền Nam 1955 - 1975. Ngoài sáng tác, ông còn dịch thuật nhiều tác phẩm văn học thế giới.

Mặc Đỗ tị nạn tại Hoa Kỳ từ năm 1975 và tạ thế vào ngày 20-9-2015 tại Austin, Texas, Hoa kỳ, hưởng đại thọ 100 tuổi.
Các tác phẩm đã xuất bản:

* Sáng tác: Bốn Mươi, Siu Cô Nương, Tân Truyện, Trưa Trên Đảo San Hô, Truyện Ngắn

* Biên khảo: Thần Nhân và Thần Thoại Tây Phương

* Dịch thuật: Lão Ngư Ông và Biển Cả (E. Hemingway), Con Người Hào Hoa (F.S. Fitzgerald), Một Giấc Mơ (Vicky Baum), Người Vợ Cô Đơn (F. Mauriac), Thời Nhỏ Trong Gia Đình Luvers (B. Pasternak), Tâm Cảnh (A. Maurois), Anh Môn (A. Fournier), Vùng Đất Hoang Vu (L. Tolstoi), Giờ Thứ 25 (C. V. Georghiu).

Kính mời quý độc giả đọc lại một bài viết ngắn của Mặc Đỗ đã đăng trên Giai phẩm Xuân Canh Tuất của tạp chí Vấn Đề, số tháng 1 & 2/1970.

***

Sài Gòn Của Tôi 

 

“… Sau này, ở Sàigòn, một dịp nói chuyện với anh Nhất Linh tôi có kể lại kỷ niệm đó và hỏi anh có đọc truyện đó không, khi anh còn nhỏ ở Cẩm Giàng. Hai mắt anh sáng lên cùng với trí nhớ bất đồ nhỏm dậy….” (M.Đ)
 
Thành phố của tôi đích thực là Hà Nội: tôi sinh ra ở đó, tôi đã sống trọn vẹn thời tuổi trẻ ở đó. Nhưng tôi có một ông bác ưa phiêu lưu, sớm rời bỏ thành phố sinh trưởng, đi bén rễ ở một nơi mà ngày nhỏ tôi tưởng như xa xôi lắm. Đảo Phú Quốc ở mãi tận cùng đất nước. Những giấc mơ tuổi trẻ của tôi thường hướng về chân trời thật xa đó. Những giấc mơ cũng có khi hiện thành sự thật với những gánh hát tự miền xa tới trình diễn. Bao nhiêu đêm rực rỡ ánh sáng tiền trường, vang vang tiếng ca giọng nói của miền xa đã gây nhộn nhịp, nao nức trong chuỗi ngày tuổi trẻ. Lần lượt những Năm Phỉ, Phùng Há, Sáu Nết, Tư Sang (làm sao nhớ hết những tên, những khuôn mặt ứ tràn sức chiêu dụ của miền xa?) là thứ tình nhân vô vọng làm đẹp những ngày tháng khát khao của tuổi trẻ. Nếu có thể vô cớ khóc lên được chỉ có những lúc buông tay cho tiếng ca vọng cổ thấm vào cơ thể, biến phút giây hiện tại thành những trang sách cổ tích đọc say mê một buổi chiều ngày nghỉ học. Đến bao giờ giọng nói miền xa vẫn lưu luyến như bài ca vọng cổ, đó là một chấp nhận in khắc mãi mãi, không phai.

Phần lớn những giao tình tuổi trẻ của tôi đều dành cho những người tự cái miền hai mùa mưa nắng đem tới những âm hưởng suy đồi day dứt trong tiếng ca vọng cổ. Giọng nói còn chuyên chở những cung cách sống, những món ăn ngon (mắm nêm, mắm thái… hương vị đất nước nhưng cảm giác gợi bao nhiêu mới lạ, bao nhiêu xa xôi!). Tôi từ bỏ những nề nếp cho rằng chật hẹp để mơ tưởng tới cái xa rộng của vùng đất nước mà ruộng đồng chạy dài tới chân trời, không một bóng núi che khuất. Liên tiếp năm sáu năm trời, mỗi tuần lễ một lần, hai lần, những khoảnh khắc rạo rực tuổi trẻ là những lúc đọc thư, viết thư. Bến đợi ở đầu bên kia đất nước là cô em gái một người bạn lớn. Mỗi giòng chữ là một lời hẹn họ, mời gọi. Sàigòn của tôi từ hồi đó.
Tuổi trẻ đã để lại sau lưng, tôi mới bắt đầu xích gần tới miền xa bao lâu mong ước. Ngày xưa xê dịch không dễ dàng như ngày nay, phương tiện duy nhất là những chuyến xe lửa lần lần bò rất chậm dọc theo vùng duyên hải ngời sáng, lượn vừa đúng trên vòng cung bao lơn ngó ra đại dương. Những thuận tiện riêng không cho phép một mạch lao tới nơi mong đợi. Từ Tháp Chàm tôi phải rẽ lên Cao Nguyên chịu thêm một thời mong đợi thử thách nữa. Nhưng Đà Lạt đã gần như Sàigòn rồi, giọng nói chiêu dụ rất thường nghe thấy chung quanh, những hàng chữ mời gọi bữa trước bữa sau đã tới tay. Vậy mà cũng phải ba năm chờ đợi.

Sàigòn rõ ràng là nơi tận cùng của chuyến đi. Ga xe lửa nằm gọn trong thành phố. Đó là nơi đến, nhất định đến. Không phải là chỗ ghé qua như hầu hết những nhà ga khác. Muốn từ đây đi người ta phải lùi lại trên con đường đã đến, chờ một khúc rẽ mới tiếp tục cuộc đi. Nhưng có tiếp tục đi nữa cũng chẳng đi được bao xa. Sàigòn – Mỹ Tho không đầy một trăm cây số. Mà không phải vẫn con tàu đó. Sàigòn nhất định là nơi đến, không cách nào khác.

Nhưng, với người bấy lâu khao khát, ga Sàigòn có làm thất vọng. Một dẫy nhà thấp, rất ít ồn ào của những chuyến tới chuyến đi, chỉ là một ga nhỏ, như nhiều ga nhỏ khác dọc đường lại thua kém cái hun hút của hai nẻo đường dài. Thất vọng, nếu trên sân ga không có những người đón đợi. Biển tiếng nói chiêu dụ vây lấy người mới đến, xô đẩy người mới đến vào những khám phá rất nhiều đang chờ bắt đầu từ hè phố trước ga. Đà Lạt - Sàigòn hành trình vừa đúng một đêm nằm ngủ trên xe. Người đến tỉnh dậy cùng thành phố trở dậy, khám phá càng ham hố vì có cả ngày dài trước mặt, đầy đủ, quá nhiều…


Cây, những cây, Sàigòn buổi sáng tươi mát trong ánh nắng. Người mới đến được thành phố chấp nhận ngay từ những bước chân đầu, không bỡ ngỡ ngơ ngác. Làm sao còn thấy mình là khách khi ngồi giữa một tiệm mì, giữa đông đảo người Sàigòn ăn sáng. Những món điểm tâm tự nhiên đưa tới trước bàn, không cần gọi. Lựa chọn bằng mắt dễ dàng, cứ ăn như mọi người chung quanh đang ăn. Chỉ một chút nhận xét là ngay bữa đầu đã có thể thông thạo hết thảy mọi người. Người Sàigòn nghĩ tới mình nhiều hơn là bận tâm tới mọi người khác ở chung quanh, cho nên người mới đến rất mau hòa mình được vào đám đông người không cùng ngôn ngữ – người Tàu, người Chà – họ tới, họ phát triển và không ai nghĩ rằng họ quá đông, thao túng một phần lớn đời sống trong thành phố, của cả một miền.

Buổi trưa Sàigòn. Hai mươi lăm năm sau, hôm nay, làm sao tìm lại được những buổi trưa Sàigòn thời đó. Du khách Tây phương đã từng viết về Sàigòn, ví Sàigòn như một thành phố miền Nam nước Pháp. Nhận xét thật đúng những lúc ban trưa mọi hoạt động hầu ngưng trệ hẳn để mọi người nghỉ ngơi. Bóng cây buổi trưa Sàigòn quả là những bóng cây với tất cả sự êm tịnh, vắng lặng, những lá me lay động in bóng trên mặt hè vắng Sàigòn thật khác, so với những thành phố miền Trung, miền Bắc. Nhưng đặc biệt nhất là đêm Sàigòn. Buổi sáng, buổi chiều, Sàigòn làm việc, đêm đến Sàigòn mới thật sự sống. Ra quán uống cà-phê, ăn sáng, đó là một cần thiết ngắn. Tối đến ra đường, đó mới là thời gian của mình của mỗi người Sàigòn. Ăn và chơi mọi thứ đều có đủ. Bỏ ra một năm trời khám phá chưa chắc đã biết hết mọi thứ ăn và mọi thứ chơi của Sàigòn. Rất nhiều người đến Sàigòn rồi không thể bỏ đi. Chưa hẳn bởi họ ham ăn ham chơi. Đêm Sàigòn là của hết thảy mọi người, ai cũng có thể tìm thấy cái phần của mình ở một nơi nào đó trong thành phố nô nức về đêm. Bởi có đêm Sàigòn đời sống thấy dễ chịu hơn. Ban ngày làm việc, đêm đến có cơ hội tức khắc đền bù những nhọc mệt trong ngày. Cần cù, cố gắng được chia thành nhiều đoạn ngắn. Hãy sống cho ngày hôm nay, sáng mai lại tiếp tục. Đời sống Sàigòn đáng yêu bởi lẽ không đòi hỏi nhiều cố gắng tích lũy.

Hai mươi lăm năm sau, những gốc cây của Sàigòn ngày xưa lần lần bị đánh ngã. Chẳng cần tới những lưỡi cưa tàn nhẫn, riêng bụi và khói độc của đường phố cũng đủ làm nghẹt thở từng cành lá. Sàigòn đâu còn là Sàigòn nữa. Đâu còn thứ Sàigòn hoan hỉ mời gọi và tức thời biến người lạ thành quen. Bóng mát không tìm thấy. Bây giờ chỉ còn đám đông những người lạ, từ bốn phương kéo tới và ồ ạt tranh sống. Sàigòn của ai, của những người mạnh tay, lanh mắt. Hãy đổ lỗi hết cho chiến tranh, để lương tâm mỗi người tạm yên. Cho cái gốc thực sự Sàigòn đừng mất.

Cuộc sống bây giờ ai thấy cũng tạm. Cho nên đừng đánh giá gắt gao. Chiến tranh như cơn lốc xô đẩy những đám người quy tụ thành từng tập thể bát nháo. Hoàn cảnh nhất thời đâu giữ mãi được gót chân người nếu không khí tình cảm chung quanh không là bóng mát níu kéo. Như những bóng cây buổi trưa Sàigòn hồi nào. Như những đêm Sàigòn ngày xưa đem thoải mái đến, sau những ngày làm việc. Nghĩ cho cùng, bóng mát cũng không do ý muốn của con người. Đừng ai nghĩ là muốn hay không muốn tạo bóng mát. Bóng mát của Sàigòn ngày xưa là hợp thành của chính bao nhiêu cái vô tâm của người Sàigòn. Người mới đến cũng mang cái vô tâm của mình hòa trộn vào mớ vô tâm chung. Sàigòn ngày xưa quyến rũ không phải vì ai, do ai. Có một quy luật cởi mở mặc nhiên ai nấy cùng theo và hết sức tôn trọng. Cái chén nhỏ tư lợi hẹp hòi của mỗi người làm sao so sánh được với lượng vô biên của một miền phù sa chỉ thèm tranh đua với riêng biển cả. Sàigòn, miền Nam, tương lai là ở trước mặt. Điều đáng sợ là sợ mất cái gốc tươi mát ngày xưa.

Hànội, Huế, Sàigòn. Ba mối tình, một bản hòa tấu. Làm sao thiếu được một khúc. Thiếu thốn chính là những người dễ dàng cam chịu ẩn núp trong một ngõ ngách địa phương, cam tâm đứng lại trong khi dòng đời đang chảy. Cái nhịp diễn tiến hiển hiện trong ngôn ngữ hòa trộn. Thử lắng nghe những sân khấu bình dân nhất. Những người đứng lại có thấy chăng ngôn ngữ – phương tiện cảm thông số một – đã đi tiên phong bồi đắp phù sa san bằng những ranh giới tư lợi trước mũi. Đào Duy Từ đã sống lại trong một số người hôm nay. Nhưng Đào Duy Từ hôm nay đã không cưỡng lại nổi sức giao hòa của ngôn ngữ…

Mặc Đỗ

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Con người của toán học và kỹ thuật nhưng tâm hồn lại dành cho văn chương. Chính văn chương đã nâng anh dậy thành một nhà văn xứng với cái tên Trần Quí Sách tiền định. Từ năm 1964, anh đã có truyện và thơ trên Bách Khoa, Văn, Văn Học, Đời, Thời Tập, Vấn Đề, Khởi Hành và Ý Thức. Năm 2004, anh về hưu và dành tất cả thời gian cho văn học Việt Nam với Thư Ấn Quán và Thư Quán Bản Thảo. Anh đã biến căn nhà ở Plainfield, New Jersey, thành nhà in gồm toàn máy móc cũ mua rẻ trên e-Bay để “chế tạo” những cuốn sách từ A đến Z.
Có lẽ từ khi xem cuốn phim Casablanca, một cuốn phim khá xưa, tôi có ý thích đi Morocco. Phim kể về một chuyện tình trong bối cảnh đệ nhị thế chiến. Humphrey Bogart và Ingrid Bergman thủ vai chính. Lúc đó, nhiều nơi trên đất Pháp đã bị Đức Quốc Xã chiếm đóng. Rất nhiều người chạy trốn Hitler bằng những con đường gian truân. Đi từ Paris, đến Marseilles, đến Lisbon, thoát qua Morocco. Để từ quốc gia ở bắc Phi lo giấy tờ trốn qua Hoa Kỳ. Hình ảnh Ingrid Bergman trong vai Ilsa cúi xuống nói với người nhạc công: “Sam, play it once, play “As Time Goes By”, đã đọng lại thật lâu trong trí nhớ tôi. Vì những lý do ngẫu nhiên, mà chuyến công tác sang Morocco cứ bị dời mãi. Hoạch định từ đầu năm, mãi đến tháng Sáu mới lên lịch được. Tôi nói với thượng cấp của tôi, sẽ lấy một tuần nghỉ phép sau khi đi làm ở Morocco. Lúc đó con tôi cũng được nghỉ lễ hai tuần, rất tiện. Chúng tôi sẽ về nhà Ba Mạ tôi.
Gửi BS Trần Quí Thoại, như một nén nhang tưởng nhớ người lính, nhà văn, nhà thơ Trần Hoài Thư. Thác là thể phách, còn là tinh anh. (Nguyễn Du) Những tấm hình chụp nhà văn Trần Hoài Thư trên giường bệnh là của BS Trần Quí Thoại, con trai Trần Hoài Thư gửi cho BS Ngô Thế Vinh với ghi chú: “để Bác Vinh viết về những ngày cuối cùng của Ba con.”
Tháng 6/2024 là ngày giỗ nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh (nhà báo, nhà thơ, nhà văn) nên nhân dịp nầy tôi viết về cuộc tình của bà với nhà văn Nguyễn Quang. Nữ sĩ MĐHT nổi tiếng từ trong nước đến hải ngoại, và cũng là người phục hồi lại Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại nên tên tuổi bà được mọi người biết đến nhưng “Đằng sau một người đàn bà thành công luôn có bóng dáng người đàn ông” ở trường hợp nầy.
Trước hết, về cơ bản, thơ ca cho phép các cá thể con người nói lên những cảm xúc, suy nghĩ và trải nghiệm sâu sắc nhất của họ. Nó có thể nắm bắt được các sắc thái cảm xúc của con người theo những cách mà các loại hình giao tiếp khác không thể làm được. Vay mượn câu nói của Milan Kundera, “có những điều chỉ tiểu thuyết mới nói được”, tôi có thể nói “có những điều chỉ thơ ca mới nói được.”
Nhà văn Trần Hoài Thư vừa ra đi lúc 6 giờ 35 sáng nay [giờ miền Đông Hoa Kỳ], ngày Thứ Hai 27.05.2024 tại bệnh viện JFK, New Jersey, đúng một tháng sau ngày Chị Ngọc Yến mất [27.04.2024]. Đây là một tin buồn và cũng là một mất mát lớn trong làng Văn học Việt Nam hải ngoại. Sau đây là bài viết của Trần Yên Hòa tưởng nhớ về Ông.
Đọc 9 Khuôn Mặt 9 Phong Khí Văn Chương một lần, nhiều lần, vẫn thấy tràn lấp trong mọi suy tưởng, phê bình, phân tích, là niềm hứng khởi hân hoan của một người viết, vừa là nhà thơ, vừa phê bình văn học, và trên hết là một người đọc tha thiết, mê say, bằng tất cả trái tim và khối óc...
Tin từ Trần Quí Thoại, con trai Nhà văn Trần Hoài Thư báo cho biết Ba của Thoại đã mất lúc 6 giờ 35 sáng nay [giờ miền Đông Hoa Kỳ], Thứ Hai 27.05.2024 tại bệnh viện JFK, New Jersey, đúng một tháng sau ngày Chị Ngọc Yến mất [27.04.2024]. Đây là một tin buồn và cũng là một mất mát lớn lao cho nền Văn học Việt Nam. Xin phân ưu cùng BS Trần Quí Thoại và Hai Anh Trần Quí Phiệt, Trần Quí Trâm trước tin ra đi của Ba và người em Trần Hoài Thư.
Đa số người viết thể loại này không trải qua quá trình nghiên cứu văn học phê bình hoặc không tu tập qua hệ thống hàn lâm. Kết quả thường cho thấy là những bài viết theo sở thích cảm tính, kinh nghiệm chung, mô phỏng hoặc bắt chước những bài viết nổi bật đã có sẵn. Trong khuynh hướng đó, ít thấy khả năng sáng tạo trong các bài viết này. Sáng tạo là một trọng điểm làm cho bài viết phê bình có giá trị.Một nhận xét tổng quát như vậy sẽ bỏ sót vài khía cạnh quan trọng, đó là một số ít nhà văn sinh nhi chi tri, có khả năng thông diễn, họ có thể nhìn thấu suốt một tác phẩm hoặc tác giả để đưa ra nhận định và phê phán tài hoa, hợp lý, đáng thán phục. Những vị này mà tôi được biết, họ thuộc vào tiểu thiểu số, mỗi thời đại chỉ có vài người, họ rất thận trọng về việc viết bài phê bình vì không ai lường được sự ảnh hưởng của nó như thế nào, nhất là khả năng ám ảnh của nó đối với tác giả cũng như độc giả.
Santa Ana – Hội Văn Học và Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) hân hạnh giới thiệu Hội Chợ Sách “Viet Book Fest” lần thứ 3, diễn ra vào Chủ Nhật, ngày 5 tháng 5, từ 10:00 giờ sáng đến 5 giờ chiều, tại Viện Bảo Tàng Bowers, số 2002 North Main Street, thành phố Santa Ana...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.