Hôm nay,  

Phỏng Vấn Nhạc Sĩ Trường Sa và Những Dòng Sông Xưa

22/01/202114:42:00(Xem: 5936)

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/a/ac/NS_Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_Sa.jpg
Nhạc sĩ Trường Sa

 

L.G.T.- Trường Sa là tác giả của những tình ca đã một thời làm rung động không biết bao nhiêu tâm hồn của những người yêu nhau.Và Trường Sa cũng là tác giả của nhiều bản hùng ca được phổ biến rất rộng rãi trong các quân/binh chủng. Vào một dịp đặc biệt, Điệp Mỹ Linh đã tiếp xúc với Trường Sa và ghi lại cuộc đàm thoại ngắn này.

Đ.M.L.- Xin anh vui lòng cho biết anh định cư tại Canada từ năm nào? Tình trạng gia đình anh ra sao? Từ đó cho đến nay anh sáng tác được bao nhiêu nhạc phẩm mới?

 

T.S.- Tôi định cư tại Canada từ năm 1991. Vợ tôi đã qua đời cách nay vài năm. Tôi hiện sống một mình; vì các con của tôi đều lập gia đình; 3 cháu ở Toronto, một cháu đang sống tại Mỹ.

 

Từ đó đến nay tôi sáng tác những ca khúc sau đây: Xin Yêu Nhau Dù Mai Nữa (được trình bày trong Thúy Nga 70), Mùa Xuân Sao Chưa Về Hỡi Em (Thúy Nga 44), Những Mùa Thu Qua Trên Cuộc Tình Tôi và Khi Chuyện Tình Đã Cuối (Asia video), Bản Tình Ca Cho Kỷ Niệm (Thúy Nga 70), Paris Em Về (Video Asia) Đôi Mắt Em Tôi (Asia CD), Một Thoáng Mơ Phai (Thúy-Nga CD), Saigon Ơi Tôi Còn Em Đó, Thu Vẫn Qua Đây Mình Ta và Hạnh Phúc Hôm Nay. Những ca khúc này đều xuất hiện trong CD Giòng Thời Gian, của Thùy Dương.

 

Đ.M.L.- Ngược thời gian trở về thời kỳ trước năm 1975, xin anh cho biết qua xuất xứ/không gian/thời gian cũng như cảm hứng của anh vào những lúc anh sáng tác những nhạc phẩm nổi tiếng một thời.

 

T.S.- Là một sĩ quan Hải Quân Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa (V.N.C.H.), trước bối cảnh lịch sử, tôi đã viết một số ca khúc đại chúng, trong thời gian 1965-1966, như Hành Trang Giã Từ, Chuyện Người Đan Áo, Một Lần Xa Bến, Trên Đường Về Thăm Em v. v. Sau năm 1966 tôi chuyển hướng, chỉ viết tình ca. Hầu hết các ca khúc đều buồn, từ chuyện tình cảm mất mát.

Từ 1967 đến 1969, những ca khúc tôi viết tại Saigon và được Lệ Thu thâu thanh đầu tiên là: Xin Còn Gọi Tên Nhau, Rồi Mai Tôi Đưa Em và Mùa Thu Trong Mưa. Nhạc phẩm Một Mai Em Đi tôi sáng tác năm 1973, khi đơn vị của tôi đóng quân ở đồn Trà Cú, cũng do Lệ Thu thâu thanh đầu tiên.

Ngoài ra nhiều nhạc phẩm khác của tôi cũng được những ca sĩ khác trình bày, như Tàn Tạ (Thái Thanh), Ru Em Một Đời (Sĩ Phú). Những ca khúc sáng tác tại Trà Cú: Một Mai Em Đi, Ru Em Một Đời, Sầu Muộn, Như Hoa Rồi Tàn, đều do Lệ Thu trình bày. Riêng Sầu Biển được phổ biến rất rộng rãi trong Hải Quân; vì bản nhạc ra đời vào thời điểm Hải Quân V.N.C.H. tham chiến trận Hoàng Sa.

Đ.M.L.- Tôi không ngạc nhiên khi được anh cho biết nhiều nhạc phẩm của anh đã được sáng tác tại Trà Cú. Tôi đã đến Trà Cú. Đường vào Trà-Cú chỉ có thể bằng hải vận/không vận mà thôi. 

 

Từ trực thăng nhìn xuống, đồn Trà Cú đơn độc, nằm ngay một vị trí chiến lược rất hiểm hóc của bờ sông Vàm Cỏ Đông và con kinh đào nho nhỏ. Nhưng, khi chiều xuống, ngồi nơi bãi đáp trực thăng, nghe tiếng thì thầm của lau sậy nơi vùng đầm lầy từ phía sau rồi nhìn những tia nắng úa tàn lướt nhẹ trên dòng nước lặng lờ của dòng sông Vàm Cỏ và thấy từng khóm lục bình quấn quít quanh mấy chiếc khinh tốc đỉnh – PBR (River Patrol Boat) – đang bập bềnh nơi cầu tàu thì, đối với tôi, Trà Cú không còn là một địa thế quân sự mà Trà Cú chính là nơi dễ khơi động những rung cảm thầm kín của những người mang tâm hồn nghệ sĩ.

 

Những bản tình ca của anh thường mở đầu một cách rất dịu dàng, tha thiết. Nhưng, đến đoạn giữa, anh tạo những biến âm rất lạ và rất bất ngờ. Chính những biến âm đó xoáy sâu vào hồn và làm nhức tim người nghe. Từ trước 75 cũng như sau 75, tôi nghe rất nhiều ca sĩ hát nhạc của Trường Sa. Họ hát cũng hay lắm, nhưng, đối với tôi, chỉ có tiếng hát Lệ Thu mới thật sự diễn đạt được những biến âm đột ngột đó. Xin anh cho biết anh có cùng nhận xét với tôi hay không?

 

T.S.- Những biến âm mà chị đề cập không phải tự tôi cố tình tạo nên mà là do những rung động sâu kín trong tôi trào dâng. Tôi đồng ý với nhận xét của chị về tiếng hát Lệ Thu. Vào thời điểm 1964-1965 Lệ Thu hát hay nhất và tôi thích tiếng hát Lệ Thu nhất.

 

Đ.M.L.- Tại sao thời gian đó anh không phục vụ tại phòng Chiến Tranh Chính Trị mà lại chỉ huy những đơn vị tác chiến? Cảnh sắc và những dòng sông mà đơn vị của anh đã đi qua có đem đến cho anh nguồn cảm hứng nào hay không?

 

T.S.- Tôi không thích sống và làm việc gò bó tại văn phòng, mặc dù Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đã chú ý và vài lần đề nghị tôi về Chiến Tranh Chính Trị. Cảnh sắc và những dòng sông mà đơn vị tôi đã đi qua có đem cảm hứng đến cho tôi; nhưng vì đơn vị của tôi đụng trận liên miên nên tôi không thể sáng tác được.

 

Đ.M.L.- Một lần, tại căn cứ Tiền Doanh Yểm Trợ Rạch-Sỏi, thấy mấy chiếc khinh tốc đỉnh nhận nhiên liệu xong, sắp trở lại vùng hành quân – sông Cái Lớn – tôi xin ông trung úy trưởng toán cho tôi “quá giang”. Ông trung úy bảo để ông ấy xin phép chỉ huy trưởng của ông ấy đã. Sau khi ông trung úy ấy dùng máy truyền tin trình với anh về yêu cầu của tôi, tôi nghe anh bảo ông trung úy tả hình dáng của tôi cho anh nghe xem có đúng hay không rồi anh mới quyết định. Lúc đó tôi mới biết chỉ huy trưởng của ông trung úy là anh; nhưng tôi vẫn chưa biết anh là Trường Sa. Khi vào đến vùng hành quân, gặp anh, tôi mới được biết anh là tác giả những bản nhạc mà tôi rất thích. Xin anh cho biết lúc đó anh chỉ huy giang đoàn nào? Và khi hành quân ở vùng sông Cái Lớn anh có cho ra đời nhạc phẩm nào hay không?

 

T.S.- Lúc đó tôi chỉ huy Giang đoàn 63 Tuần Thám. Đơn vị của tôi hoạt động trên sông Cái Lớn chỉ có 3 tháng. Trong thời gian này đơn vị của tôi cũng đụng trận hoài nên không sáng tác được gì cả. Sau đó Giang đoàn 63 Tuần Thám phải quay về Đồng Tháp Mười để giải tỏa áp lực địch ở kinh Đồng Tiến. Tại vùng này, vào mùa Hè năm 1972, chúng tôi đã chịu một trận đánh rất ác liệt.

Đ.M.L.- Xin anh cho biết một cách khái quát về trận đánh đó để độc giả được biết thêm về một khía cạnh khá đặc biệt của anh.

 

T.S.- Tại trung tâm Đồng Tháp Mười và cũng là trung tâm kinh Đồng Tiến, Hải Quân thành lập một căn cứ tại Phước Xuyên. Căn cứ này là hậu cứ của Giang Đoàn 63 Tuần Thám. Từ căn cứ Phước Xuyên đi về hướng sông Vàm Cỏ Tây, hai bên là rừng tràm dày đặt, chạy dài tới Ấp Bắc. Từ căn cứ Phước Xuyên đi về hướng sông Cữu Long, hai bên là đồng trống, thỉnh thoảng có một khu dân cư ở ven kinh.

 

Ngày 07-04-72, đoàn khinh tốc đỉnh của Giang Đoàn 63 Tuần Thám đang tuần tiễu trong khu rừng tràm thì bị lực lượng cộng sản Bắc Việt, từ biên giới Kampuchea xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam, tấn công. Trong khi đó, một đoàn khinh tốc đỉnh khác – cũng thuộc Giang Đoàn 63 Tuần Thám – đang hoạt động nơi khu đồng trống thì bị đánh bằng mìn áp lực, căn cứ Phước Xuyên bị pháo kích liên tục và bị phóng hỏa tiễn. Giang Đoàn 63 Tuần Thám được tăng cường một số khinh tốc đỉnh thuộc Giang Đoàn Ngăn Chận và Giang Đoàn 59 Tuần Thám. Lúc này mọi hoạt động của lực lượng Hải Quân VNCH đều phải “co” lại, vì mặt nào cũng bị tấn công.

 

Suốt hai tháng bị bao vây tại Đồng Tháp Mười, lực lượng Hải Quân đã hai lần mở đường máu ra Ấp Bắc, với sự yểm trợ của lực lượng Bộ Binh phối hợp với Không Quân Hoa Kỳ, nhưng khi đến khu rừng tràm thì bị đánh dội ngược trở lại.

 

Các Giang Đoàn Tuần Thám đều được trang bị bằng khinh tốc đỉnh. Khinh tốc đỉnh được chế tạo bằng vật liệu nhẹ nên ưu thế là tạo được vận tốc cao nhưng yếu thế là khi bị mìn thì tàu vỡ tan! Do đó lực lượng Hải Quân bị tổn thất nặng trong trận này. Đơn vị Việt cộng chủ động trận đánh này tôi không nhớ rõ, dường như là Công Trường 5 cộng sản Bắc Việt.

 

Đ.M.L.-Sau đó anh về Trà Cú, đúng không? Vì tôi nhớ khoảng thời gian cuối 72 hoặc đầu 73, tôi gặp anh ở Trà Cú.

 

T.S.- Vâng. Sau trận đánh kinh hoàng ở căn cứ Phước Xuyên, tôi được thuyên chuyển về làm chỉ huy trưởng Giang Đoàn 53 Tuần Thám, chịu trách nhiệm vùng sông Vàm Cỏ Đông, trú quân tại căn cứ Trà Cú, thuộc tỉnh Hậu Nghĩa. Vì đơn vị của tôi hoạt động trên sông Vàm Cỏ Đông với mục đích cắt ngang thủy lộ xâm nhập của cộng sàn Bắc Việt từ mật khu Mõ Vẹt nên bị đụng độ hoài và căn cứ Trà Cú bị pháo kích liên miên, kể cả bị hỏa tiễn AT3.

ĐML.- Ngày đó, ở cương vị của một sĩ quan Hải Quân ngành chỉ huy và tiếng tăm của một nhạc sĩ được mến mộ, nếu buộc anh phải lựa chọn, anh chọn danh xưng nào?

 

T.S.- Là một thiếu tá Hải Quân, tôi rất hãnh diện đã phục vụ cho lý tưởng tự do; đó là hoài bảo của một thanh niên đầy nhiệt huyết trước nhu cầu của đất nước; đó cũng là danh dự của cả một đời người, tôi không thể không chọn lựa danh xưng này.

 

Mọi người sinh ra đều có những năng khiếu khác nhau. Viết một ca khúc, trước hết mình đã phần nào là một người làm thơ và mình cũng phải có một giác quan rất bén nhạy mới có thể tạo ra được những chuỗi âm thanh hài hòa để người nghe cùng rung động với tâm tư của mình. Vì vậy, trong âm nhạc, tôi cũng không thể không nhìn nhận đây là một nhu cầu vô cùng cần thiết cho đời sống tinh thần.

 

Đ.M.L.- Anh trả lời khéo léo vô cùng. Xin anh cho biết tựa đề nhạc phẩm anh sáng tác đầu tiên và ca sĩ nào trình bày? Cho đến nay tổng cộng anh sáng tác được bao nhiêu ca khúc?

 

T.S.- Bản nhạc do tôi sáng tác đầu tiên là một ca khúc Tango Habanera, tựa đề Mây Trên Đỉnh Núi, để tặng người bạn tên Hoàng, xướng ngôn viên đài phát thanh Dalat. Bản này do Thanh Lan hát. Cho đến nay, kể cả một số ca khúc chưa phổ biến, tổng cộng tôi sáng tác khoảng 50 bài.

 

Đ.M.L.- Anh nhận xét như thế nào về nền âm nhạc Việt Nam ở trong nước kể từ khi anh ra tù rồi vượt biển? Thời gian đó có bao giờ vô tình anh nghe lại được những bản nhạc của anh trong số “nhạc vàng” mà người miền Bắc rất thích hay không? Nếu có, lúc đó anh nghĩ gì và cảm nhận được gì?

 

T.S.- Suốt thời kỳ chiến tranh, người miền Bắc Việt Nam chỉ được các nhạc sĩ phổ biến những ca khúc động viên tinh thần chống Mỹ. Tuy nhiên, sau khi chiến tranh chấm dứt, khuynh hướng phổ biến “nhạc vàng” được nới rộng và quần chúng có dịp thưởng thức phần nào âm nhạc miền Nam. Chính tôi đã được nghe một chương trình nhạc êm dịu do Phạm Trọng Cầu tổ chức và một ca sĩ hát bài Rồi Mai Tôi Đưa Em. Và sau khi vượt biển, ra ngoại quốc, tôi được xem một show video , ca sĩ Lan Ngọc trình bày Xin Còn Gọi Tên Nhau và Mùa Thu Trong Mưa. Những lúc đó tôi rất xúc động.

 

Đ.M.L.- Anh so sánh như thế nào giữa nền âm nhạc Việt Nam tại hải ngoại và nền âm nhạc tại Việt Nam từ 1954 đến năm 1975?

 

T.S.- Có thể chia làm hai thành phần. Thành phần những người viết nhạc từ trước 1975. Do hoàn cảnh sinh sống trên quê hương tạm dung khác biệt với quê hương Việt Nam nên bị hạn chế và cái nhìn có khác đi. Thành phần những người trẻ viết nhạc sau 1975. Số người sáng tác đông đảo, âm nhạc có khuynh hướng trẻ, tuy nhiên, bị hạn chế về văn chương Việt Nam; vì họ không được hấp thụ như những người sinh ra/lớn lên và viết nhạc tại Việt Nam. Đa số lời ca sáo ngữ, không có chiều sâu.

 

Đ.M.L.- Anh có nhận thấy rằng, trong khi người viết nhạc tại hải ngoại thiếu hoàn cảnh để đưa âm nhạc gần với tình tự dân tộc thì nhiều nhạc sĩ và ca sĩ tại Việt Nam lại có chiều hướng muốn rời xa những gì họ sẵn có để bắt chước theo nhạc ngoại quốc hay không?

 

T.S.- Vâng. Đó là điều thật đáng tiếc.

 

Đ.M.L.- Anh có nhận thấy rằng “dòng Boléro nhàm chán” của thời trước 75 nay không xuất hiện nhiều trong nền âm nhạc Việt Nam tại ngoại quốc hay không?

 

T.S.- Vâng. Tôi nhận thấy sự giảm thiểu đó. Nhưng, theo tôi, Rhumba hay Boléro tự nó không đem đến cho người nghe chút nhàm chán nào cả mà chỉ vì nó dễ đàn, dễ hát, ai đàn, ai hát cũng được nên dễ phổ biến. Người viết nhạc thời đó thích phổ nhạc hoặc viết những ca khúc theo điệu Bolero để phổ biến rộng rãi nên người nghe nghe hoài đâm ra không cảm thấy hay nữa.

 

Đ.M.L.- Khi sáng tác anh thường xử dụng nhạc cụ nào?

 

T.S.- Tôi thiếu may mắn. Thuở thư sinh vừa học văn hóa vừa tự nghiên cứu âm nhạc theo bộ sách giáo khoa của Traité Dubois, gồm Harmonie Consonante, Harmonie Dissonante, Contre Point, Le Fugue. Đến tuổi động viên, tôi gia nhập Hải Quân, khóa 12 sĩ quan Hải Quân Nha Trang. Nhịp độ chiến tranh và cuộc đời quân nhân không cho phép tôi thực hiện những điều tôi mong muốn như học một số nhạc cụ tôi thích, chẳng hạn như Piano. Tôi chơi Guitar từ khi tôi 14 tuổi.

 

Đ.M.L.- Anh có muốn trở lại thăm những vùng “không gian xưa quen gót lầy” (1) hay không?

 

T.S. - Muốn lắm chứ. Tôi và bạn bè của tôi đã trải dài phần đời tươi trẻ của chúng tôi trong những vùng “không gian xưa quen gót lầy” đó. Chuỗi ngày tươi trẻ ấy tuy triền miên sống trong hiểm nguy, khốn khó, lúc nào cũng cận kề với cái chết, nhưng chúng tôi rất hãnh diện là chúng tôi đã sống một phần đời đáng sống.

 

Đ.M.L.- Sau chương trình do Paris By Night thực hiện anh có dự định nào khác cho tương lai gần hay không?

 

T.S.- Tôi chỉ mong gom góp tất cả những ca khúc tôi viết từ trước đến nay để cho vô một tuyển tập, nhưng tôi vẫn chưa thực hiện được, vì lười!

 

Đ.M.L.- Anh muốn nhắn gửi điều gì đến độc giả không?

 

T.S.- Tôi xin cảm ơn độc giả và những người đã yêu thích nhạc của Trường Sa.

 

(1) Lời ca của nhạc phẩm Rồi Mai Tôi Đưa Em, của Trường-Sa. 

ĐIỆP MỸ LINH

http://www.diepmylinh.com/ 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Những người Á Châu trên khắp thế giới đang phản ứng với “niềm hạnh phúc rơi nước mắt” khi Chloe Zhao làm nên lịch sử tại Lễ Trao Giải Trái Cầu Vàng (Golden Globe Awards) lần thứ 78, trở thành người phụ nữ Mỹ gốc Á Châu đầu tiên thắng giải đạo diễn xuất sắc nhất của giải này, theo bản tin của BBC tiếng Anh tường thuật hôm Thứ Hai, 1 tháng 3 năm 2021.
Viet Film Fest dự trù sẽ diễn ra từ ngày 15 đến 30 tháng 10, năm 2021. Do đại dịch covid-19, Viet Film Fest 2021 sẽ đươc thực hiện hầu hết trên online, với một số suất chiếu drive-in và có thể tại rạp nếu điều kiện cho phép. Xin vào thăm trang nhà www.VietFilmFest.com để điền đơn và đóng lệ phí tham dự. Viet Film Fest do Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) tổ chức mỗi năm một lần nhằm đưa những câu chuyện và kinh nghiệm sống của người Việt hoặc gốc Việt trên toàn thế giới qua điện ảnh. Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) là một tổ chức bất vụ lợi được sáng lập từ năm 1991 với mục đích nối kết và làm phong phú hoá các cộng đồng qua nghệ thuật và văn hoá Việt Nam.
Trước Tết Ta 2021 tình cờ thấy bài thơ của thi sĩ Vivi phổ biến trên nhóm (internet) liên quan đến trường xưa với tiêu đề "NGẪM VỀ TRƯỜNG CŨ" tôi lấy xuống cất đó. Vài ngày qua lợi dụng lockdowm tôi lôi nó ra phổ nhạc giải trí cho đỡ buồn. Xí xọn (là nghề của tôi) cho nên hai ba ngày liên tiếp lục tìm hình trên mạng.
Có ai đó đã ví đời người như một dòng sông, mỗi giai đoạn cuộc đời như một khúc quành. Mỗi người thường có những dấu ấn riêng để hồi tưởng lại những cột mốc trong dòng đời. Có khi là một nơi chốn, có khi là một kỷ vật, hay một nhân vật. Riêng tôi, những cột mốc trong dòng đời gắn liền với những bản nhạc xuân. Ngay từ bé khi chưa học nhạc, chưa biết đàn, tôi đã thích nghe và nhớ khá lâu những ca khúc. Tôi cũng đặc biệt say mê không khí những ngày Tết. Có lẽ vì vậy, tôi vẫn nhớ như in những ca khúc xuân mà mình có kỷ niệm trong từng chặng tuổi đời. Tôi học tiểu học ở trường Sư Phạm Thực Hành, ngôi trường ở Sài Gòn áp dụng lối dạy học mới, năng động kiểu Mỹ dành cho học sinh. Tôi được thầy cô dạy hát trong những dịp lễ đặc biệt, trong đó có ngày Tết. Ở tuổi thơ ấu, những ngày chuẩn bị đón Tết là thần tiên nhất. Ở nhà thì bận bịu dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa, mua sắm cho ba ngày Tết. Lên trường thì bài vở nhẹ nhàng, các lớp lo tập văn nghệ mừng xuân. Tôi nhớ cô giáo dạy hát bài Nắng Tươi
“Raya Và Rồng Thần Cuối Cùng” sở hữu dàn diễn viên lồng tiếng xuất sắc, bao gồm Kelly Marie Tran trong vai nữ chiến binh gan dạ Raya, Awkwafina trong vai rồng thần huyền thoại Sisu, Daniel Dae Kim trong vai Benja - người cha thông thái của Raya. Tuyến phản diện của phim gồm Gemma Chan trong vai công chúa Namaari - kẻ thù của Raya, Sandra Oh trong vai thủ lĩnh Virana - người mẹ quyền lực của Namaari. Ngoài ra, tác phẩm còn có sự góp mặt của Benedict Wong trong vai người khổng lồ Tong, Izaac Wang hóa thân thành cậu nhóc lái buôn 10 tuổi tên Boun, Thalia Tran trong vai bé Noi nghịch ngợm, Alan Tudyk trong vai Tuk Tuk – người bạn thân kiêm thú cưỡi của Raya, Lucille Soong trong vai Dang Hu, thủ lĩnh của Long Trảo, Patti Harrison trong vai người thủ lĩnh Long Vỹ và Ross Butler trong vai thủ lĩnh của Long Cốt.
Tiếng hát bay trên hàng phố bâng khuâng ngày nào giờ đã đi vào cõi miên viễn chiêm bao, tin Lê Thu nằm xuống trong cơn đại dịch để lại bao bàng hoàng thương tiếc cho người ái mộ giọng hát vàng mười của chị, cả trong và ngoài nước đã có rất nhiều giọt nước mắt tiếc thương rơi xuống khi thần tượng của mình đã không còn nữa.
Ở một nơi xa xôi nào đó, tôi đã thấy Lệ Thu đang yên nghỉ một mình, trong lặng lẽ và cô đơn và đêm nay, ở đây, tôi sẽ ở lại cõi trần này để lặng im hằng giờ, dở lại các trang nhạc và vặn lên nghe hàng chục bài hát Lệ Thu đã hát. Cuối cùng của nửa đêm chưa ngủ, tôi đã tìm được tiếng hát nhẹ nhàng “ không buồn tênh lắm đâu” của Lệ Thu từ gần 50 năm trước nhưng bây giờ nghe lại, hình như chỉ còn là tiếng hát thì thầm cho chính mình.
Hôm nay là ngày 16 tháng Giêng năm 2021, một năm thật mới thật đẹp nhưng cũng thật buồn. Buồn như buổi chiều nay được tin một người chị, một người bạn vừa vĩnh viễn ra đi. Đó là danh ca Lệ Thu.
Trước nỗi đau nầy, mượn câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm để tiễn biệt Lệ Thu Bùi Thị Oanh: “Oanh bay đi biền biệt chẳng quay về”. Và, tiếng hát đầu tiên của cuộc đời với câu kết trong nhạc phẩm Dang Dở như định mệnh “Hoa tàn nhạc bay theo không gian” tiễn người: Lệ Thu về cõi thiên thu! “Đời xa tiếng ca nào ai tiếc thương bẽ bàng” (Ánh Đèn Màu).
Tháng 10 năm 2020, nhà báo Phạm Đoan Trang trước khi bị bắt đã viết bức thư trong đó có câu “ Xin đừng cứu tôi mà hãy cứu quê hương tôi”, tờ báo Washington Post có đăng trong bài xã luận “ Don’t Free Me- Free My Country”. Cảm hứng từ câu nói đó, Trần Chí Phúc sáng tác ca khúc Cứu Quê Tôi Thoát Gông Xiềng Chủ Nghĩa và đàn hát để tặng cho các nhà đấu tranh tự do nhân quyền đang bị cầm tù tại quê nhà.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.