Lửa, Thấy Từ Stochkholm

6/20/202500:00:00(View: 781)

Hình để Cường dùng cho web only với bài thơ


Thomas von Vegesack* quẹt diêm
Lửa bếp, Lửa đèn. Lửa lò sưởi
Ngọn nến bữa ăn chiều lung linh
Quặn lòng quê xa, bạn tù tội

Phương Đông: Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ
Quê ta, bao nhiêu ngũ hành sơn
Bếp ai tro lạnh chiều nay nữa
Lửa gì đâu. Lửa tủi, lửa hờn

Nâng ly rượu thơm, bọt dàn dụa
Tưởng thấy dòng thác xưa vật mình
Ghềnh đá trơ vơ sùi bọt nhớ
Thơ chết oan đầy của tử sinh

Nắm xương ai gửi rừng Xuyên Mộc**
Ngọn đèn nào leo lét gió mưa
Cơm kêu. Kẻng gõ. Miệng khô khốc
Con đóm đêm nao vẫn vật vờ

Bạn ta nữa. Chân núi Mây Tào***
Mười ba năm rừng sâu sức cạn
Chiều khổ sai, khoai sắn ra sao
Lửa nào giữ cho lòng đủ ấm

Tha lỗi nhé. Miếng ngon nuốt nghẹn
Vui riêng cứng lưỡi, thốt không đành
Cháy mãi cùng ta vậy, nghe nến
Ngọn lửa anh em ngày tái sinh.

Stockholm. 9.1988

*Thomas von Vegesack, nhà văn Thụy Điển, nguyên chủ tịch văn bút thế giới,
chủ tịch điều hành Ủy ban quốc tế các nhà văn vị cầm tù.

**Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn chết tại trại khổ sai Xuyên Mộc.
***Nhà văn Thảo Trường bị giam tại trại khổ sai Z30D, Hàm Tân.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Bạn đang nghe thấy gì trong khí hậu tháng Tư? / Tiếng kêu từ đáy huyệt cuối trời. / Tiếng gió xoáy những cột cờ tử thương tuẫn tiết. / Tiếng phố vỡ triệu mảnh thủy tinh cắt lồng ngực tháng tư rỉ máu mãi chưa khô. / Tiếng sóng hôi dao mùi hải tặc từ oan nghiệt một thời biển huyết. / Tiếng oan hồn dật dờ tìm về cố quận, đáy vực kia bầy cá hoang tảo mộ. / Tiếng hậu chấn từ tâm hồn con dân tháng Tư choàng lên thảng thốt. Dấu chàm xanh lưu xứ để nhận ra nhau. / Tiếng con bướm gáy trong giấc ngủ đôi bờ chiến tuyến. / Tiếng vô vọng của dòng thơ đớn đau, sỉ nhục trải dài trên đất đai tổ quốc. /Tiếng mong mỏi trên những dòng thơ đang vuốt mắt lịch sử, xin hãy chết yên, chết quên, và mở lòng ra ôm những vết thương, trồng lại bóng Quê Nhà…
“Chìm trong biển chết trôi tim người / Còn gì đâu tiếc thương xa xôi …” Chiếc tàu nhỏ rời bến Constantine, Algeria, chở Enrico Macias đến một nơi xa lạ, người lưu vong không bao giờ được phép trở về. Làm sao cánh chim di có thể quên lối cũ? Chiến tranh xua đuổi ông ra khỏi quê nhà. Tàu khởi hành không một người đưa tiễn. “Người tình ơi, ta xa nhau. Mượn đôi mắt em lên đường.” Với cây guitar làm hành trang, ông ghi lại, “J'ai quitté mon pays …”
Cuối tháng 3 nằm ngủ ngoài hiên nhà, quá khuya thức dậy đầu tháng 5. Mây xuống thấp nhập sương mù lên cao. Ánh đèn lảo đảo suốt đêm ý nghĩ nín câm, chờ trời sáng. Sớm dậy, xuống phố uống cà phê với bạn. –“Con ơi, nhớ về ăn trưa.” “Chiều con mới về, mẹ nhớ uống thuốc ho.”Một ngày lem lọ bình thường, tin chiến sự hòa giải. Không Nga, không Mỹ, không Trung quốc, chỉ Bắc Nam bắt tay. Huynh đệ một nhà cần gì hàng xóm.
thời gian rủ nhau về tháng tư trũng mắt | lập lòe nhớ đóm lửa thanh xuân | ngồi bên hiên nghe hụt hẫng | thủy triều biển Đông ào ạt mặn lòng
Ngọn cờ này ta mang từ núi Thứu | Trồng nơi đây không biết đã bao đời | Hút đất đá nên đổi màu khác lạ | Cứ như màu câu hát ngấm trong nôi. | Này sắc vàng sắc thịt da dân việt.
Từ đó chết rồi | Hồi báo động của nỗi an bình thơ | Đừng đổ lỗi sự bất cẩn cho kiếp nạn
Tô phở Việt Nam | Có rau Quế lấy giống từ Bắc Việt \ Có rau thơm rễ tận miền Trung | Có giá ngon gốc từ Lục Tỉnh | Có ông bà cha mẹ anh em ăn húp sáng chiều.
Tương lai ai bắn tôi bằng đại bác /tôi chịu tan xác / không một chút than oán / nhưng bây giờ tôi phải bắn / bắn vào một loại quá khứ bằng tất cả cái gì tôi có /không có súng tôi dùng ngòi bút /vừa ngợi ca một quá khứ vừa đâm một quá khứ / khác tóe máu /dòng máu độc hại lưu cữu ấy / đã phá nát hiện tại di hại tương lai /nhiều năm sau nữa /để họ thấu được quá khứ tồi tệ thế nào