Thơ Thy An: Tâm Sự Tháng Bảy / Tâm Sự Tháng Chín

12/10/202010:42:00(Xem: 2246)
L1140131
Tranh sơn dầu Nguyễn Việt Hùng




Tâm sự tháng bảy

 

*

đâu đó có một chút hốt hoảng và bất bình

điên đảo của mùa xuân vừa dứt

tháng bảy hiện về mặt trời nắng ấm

thu mình cô đơn

với những dự định hủy bỏ

mùa hè ít nói

những trái tim mở cửa và khép mình

quyển sách đọc đêm qua

bàn tay cầm nắm đất

lòng chưa rộng như cánh đồng

với những mùi hương xô nhau ngã gục

 

*

chữ nghĩa ngổn ngang

bay trong trời đất

ký ức rót vào tim những câu nói của tiền nhân

hình như chẳng bao giờ cũ

giọt khai vị trên môi

ngọt đắng có đủ

lời ca tụng của chim và gió

đóa hoa vô thường nở cạnh bài thơ rỉ sét

giấy vàng và  chữ nhạt

hứng giọt mưa rơi thung lũng xa xôi

 

*

có thơ nào biến thành giấc mơ

tha thứ, bất cần, thanh thản

như trăng già lãnh đạm cười sau bóng mây

hành tinh thu hẹp trên lưng con dã tràng vô bổ

trong vô lượng vô biên

đất trời bỗng sáng sau cơn buồn vô cớ

*

bỗng thấy già nua

như trái đất và mặt trời

Pythagore và Euclide đã chết

toán học không định hình nổi sự sống

cố sắp xếp ngôn ngữ cho dễ nghe

những người bạn mỉm cười

đến, đi, trong phút chốc

ly chén vơi đầy

hơi thở hiếm hoi trong lồng ngực

bệnh dịch đau thương và tự do bất cần

ôi cơn dâu bể trần ai

 

*

có bao giờ qua đây

nhìn dòng sông đi ngang thành phố

lá hoa trôi dạt

những giác quan như đứng lại

mùa hạ nghe sao khác lạ

 


*tháng bảy mùa dịch Covid-2020  

 

  

Tâm tư tháng chín

 

*

tháng chín

cơn nóng cuối hè đem chút lửa tàn về thành phố

tôi đi trên những con đường im lặng

cô đơn vẽ khoanh tròn không tên

mỗi chấm đen là trũng sâu vô định

mảnh vụn của trí nhớ vỡ tung lòng mắt

nhớ lại nơi sinh ra đời với hình tượng người mang hơi hám tổ tiên

lớn lên theo ngọn gió nghèo nàn

và dưỡng nuôi bằng sự lương thiện

của những trái tim Việt Nam sòng phẳng

*

tháng chín

hoa và lá khô cằn cạn kiệt

những con sâu bám vào thân cây sau đêm tàn phá thật nhanh

khu vườn cất tiếng kêu cộng hưởng với những khúc biển dãy dụa

người ngư phủ buồn lặng lẽ chôn những con cá chết

còn giấc mơ nào mọc lên từ  rơm rạ quê hương

em thấy chăng

những đôi mắt sâu của rừng

đang nức nở bên mép bờ lịch sử

*

tháng chín

bài thơ từng đoạn thở dài

mặt hồ nổi lên những lá vàng như bảng tên

tìm hoài không thấy người thánh thiện

bốn mùa của năm gom lại trôi ra biển

sông núi hao mòn

nhớ người bạn già thuở xưa không còn đủ giọng

hát bài Đồng Xanh ở cuối chân trời xa*

và người bạn khác

ôm trái tim Nguyễn Du phổ nhạc Truyện Kiều*

con ngựa rừng ngã quỵ trên thảo nguyên mỏi mệt

tiếng hát bay lên cao

như trăng sao

*

tháng chín

bào mòn ngọn núi chấp ngã

hãy dành sự im lặng cho những đêm chờ sáng

cô đơn mang ý nghĩa những tấm lòng riêng tư

còn ai nghe tiếng sóng trên ghềnh đá

san sẻ với người tri kỷ trong tâm thức

như tiếng đập của lương tri trong những đêm mưa

tự hỏi và tự dối lòng nhau

lá rơi trên đất thiên thu

 

 

*

tháng chín

đám mây mù đầu tiên xuất hiện

êm ả trong lòng những điệp khúc ngắn

có lẽ mùa thu đang nhắc nhở điều gì

cho những trái tim trông ngóng một tin vui

bên kia đại dương, đến từ những vùng gió bão

bao nhiêu năm đợi chờ

nửa đời người mòn mỏi

*

tháng chín

gió vẫn thổi và mây vẫn trôi…

 

tháng 09-2019

 

 

(* : hai người bạn mang tên Thiện)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
phân thân ̶ ̶ ̶ bạn nói phân thân / nhẹ nhàng tách rời khỏi xác / lênh đênh trên dòng chảy vô hạn / bềnh bồng trong bầu sinh quyển phi trọng lượng / như lạc vào một bức tranh chagall...
Trong thơ ta có gió / Để tháng ngày ngao du / Trong thơ ta có núi / Đứng bên bờ ưu tư...
Gerald McCarthy vào Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ năm 17 tuổi, phục vụ tại Việt Nam trong hai năm 1966-1967, trong Tiểu Đoàn 1 Công Binh Chiến Đấu Hoa Kỳ (1st Combat Engineer Battalion) tại Chu Lai và rồi tại Đà Nẵng. Sau một nhiệm kỳ trong quân ngũ, McCarthy đào ngũ, bị bắt vào một nhà tù dân sự rồi chuyển vào quân lao. Những bài thơ đầu tiên của ông gom lại ấn hành trong thi tập War Story, ghi lại các suy nghĩ với kinh nghiệm tại Việt Nam. Sau đó, ông tham gia các hoạt động phản chiến và in nhiều thi tập khác. Nhà thơ D.F. Brown sinh năm 1948 tại Springfield, Missouri. Ông phục vụ trong Lục quân Hoa Kỳ từ 1968 tới 1977, trong đó từng giữ nhiệm vụ lính cứu thương trong tiểu đoàn Bravo, 1/14th Infantry tại chiến trường Việt Nam các năm 1969–70. Năm 1984, Brown in tập thơ đầu tay, nhan đề Returning Fire, trong đó, bài thơ ngắn nhất có nhan đề ghi bằng tiếng Pháp “L’Eclatante Victoire de Khe Sanh” (Chiến Thắng Huy Hoàng tại Khe Sanh).
Mariupol | không phải Sài gòn | mà trái tim tôi nặng trĩu | có bất công không | tôi và trái tim | đã chồng bốn mươi bảy năm của nỗi đau trường kỳ lên vai Mariupol
nói lời giã biệt với một ly cà phê không đường | có cần gì mật ngọt | một ngày nào hồi tưởng | mỉm cười ta đã thử mọi hương vị của tình yêu | mối tình không đi tới đâu, dấu chấm than tất nhiên là những hớp cà phê đậm
sau bấy nhiêu năm / con dốc không già hơn / không nghèo hơn / không trơ trọi hơn / nó chỉ biến / nó chỉ mất / không để lại một dấu tích...
tháng tư / mùa xuân trở mình / lung lay những ký ức và phế thải ngủ quên...
Trở về rồi, Thầy có thấy gì không? / Đôi mắt em, trên hàng cây phượng đỏ / Khi đầu hè hoa trổ bông rực rỡ / Sợ ngày chia tay lá khép chờ mong...
Chuyện tích xưa, nơi kinh thành Xá Vệ / Cung điện nguy nga, lộng lẫy cõi nhân gian / Vua Tịnh Phạn, trên ngai vàng tối thượng / Hoàng hậu Ma Da, ngôi phượng các uy nghi...
Mẹ giờ ở phía mây bay / Có khi tịnh độ phương Tây niết bàn / Có khi hồn phách miên man / Lối về quê với hàng hàng sương giăng...